Luise xứ Baden
Một biên tập viên đang sửa phần lớn trang bài viết này trong một thời gian ngắn. Để tránh mâu thuẫn sửa đổi, vui lòng không chỉnh sửa trang khi còn xuất hiện thông báo này. Người đã thêm thông báo này sẽ được hiển thị trong lịch sử trang này. Nếu như trang này chưa được sửa đổi gì trong vài giờ, vui lòng gỡ bỏ bản mẫu. Nếu bạn là người thêm bản mẫu này, hãy nhớ xoá hoặc thay bản mẫu này bằng bản mẫu {{Đang viết}} giữa các phiên sửa đổi. Trang này được sửa đổi lần cuối vào lúc 18:24, 19 tháng 4, 2024 (UTC) (82 giây trước) — Xem khác biệt hoặc trang này. |
Luise xứ Baden | |||||
---|---|---|---|---|---|
Hoàng hậu Đế quốc Nga | |||||
Tại vị | 24 tháng 3 năm 1801 – 1 tháng 12 năm 1825 24 năm, 252 ngày | ||||
Đăng quang | 15 tháng 9 năm 1801 | ||||
Tiền nhiệm | Sophie Dorothee xứ Württemberg | ||||
Kế nhiệm | Charotte của Phổ | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | Karlsruhe, Baden | 24 tháng 1, 1779||||
Mất | 16 tháng 5, 1826 Belyov, Đế quốc Nga | (47 tuổi)||||
Phối ngẫu | Aleksandr I của Nga | ||||
Hậu duệ | Mariya Aleksandrovna của Nga Yelizaveta Aleksandrovna của Nga | ||||
| |||||
Gia tộc | Nhà Zähringen Nhà Romanov (hôn nhân) | ||||
Thân phụ | Karl Ludwig xứ Baden | ||||
Thân mẫu | Amalie xứ Hessen-Darmstadt | ||||
Tôn giáo | Chính thống giáo Nga Trước là Giáo hội Luther |
Luise xứ Baden (tiếng Đức: Luise von Baden; tiếng Nga: Луиза Баденская; tiếng Anh: Louise of Baden; tên đầy đủ: Luise Marie Auguste; 24 tháng 1, năm 1779 – 16 tháng 5, năm 1826)[1][2][3] còn được biết đến ở Nga với cái tên là Yelizaveta Alekseevna (Tiếng Nga: Елизавета Алексеевна; tiếng Đức: Elisabeth Alexejewna; tiếng Anh: Elizabeth Alexeievna) là Đại Công nữ Baden, Hoàng hậu Đế quốc Nga với tư cách là vợ của Hoàng đế Aleksandr I của Nga.[4]
Đại Công nữ Baden[sửa | sửa mã nguồn]
Luise xứ Baden sinh ở Karlsruhe, vào ngày 24 tháng 1 năm 1779 (theo lịch cũ là 13 tháng 1), tên đầy đủ là Luise Marie Auguste, là một Đại công nữ của Đại công quốc Baden thuộc Gia tộc Zähringen. Luise là con thứ ba trong tổng số bảy người con của Karl Ludwig xứ Baden và Amalie xứ Hesse-Darmstadt. Ông bà nội của Luise là Karl Friedrich xứ Baden và Karoline Luise xứ Hessen-Darmstadt. Ông bà ngoại của Luise là Ludwig IX xứ Hessen-Darmstadt và Karoline xứ Pfalz-Zweibrücken. Khi chào đời, Luise rất bé và các bác sĩ sợ rằng Đại Công nữ sẽ không thể sống sót.
Luise xứ Baden lớn lên trong mái ấm của gia đình. Đại Công nữ gắn bó đặc biệt với người mẹ và liên tục duy trì việc trao đổi thư từ cho đến khi qua đời. Khi mới 12 tưổi, một cuộc sắp xếp hôn nhân diễn ra đã quyết định cuộc đời bà. Nữ hoàng Nga Yekaterina II đang tìm kiếm người vợ cho đứa cháu lớn là Aleksandr (sau là Hoàng đế Nga), đã chọn Louise làm vợ. Sau khi nhận được cảm tình gây ấn tượng sâu sắc, Ekaterina II mời Luise và người em gái Friederike đến Nga. Vào mùa thu năm 1792, hai chị em được đưa đến kinh đô Sankt-Peterburg.
Nữ hoàng Ekaterina rất có cảm tình với Luise, tìm được nét đẹp chân thành và tính trung thực từ bà.[5] Sắc đẹp của Luise cũng đã mê hoặc Aleksandr; lúc này Aleksandr còn trẻ và cũng rất đẹp trai. Lúc đầu, Aleksandr còn ngại ngùng với người vợ tương lai của mình (khi ông còn rất trẻ và chưa có kinh nghiệm), ông không biết đối xử với bà như thế nào và làm Luise hiểu nhầm rằng ông không thích bà. Nhưng cuối cùng tình cảm của cặp đôi trẻ chẳng mấy trốc đã nồng nàn. Trong một lá thư mà Luise gửi cho Aleksandr, bà có viết đoạn:"Chàng nói với em là em giữ hạnh phúc của người chung thủy... Nếu đúng thì hạnh phúc của chàng là vĩnh viễn. Chàng yêu em thật lòng thì em cũng yêu chàng bằng cả trái tim, đó sẽ là hạnh phúc mà em mong ước. Chàng hãy chắc chắn là em yêu chàng hơn tất cả những gì em có thể nói". Họ đính hôn vào tháng 5 năm 1793.
Sau đó, Luise xứ Baden bắt đầu học tiếng Nga, cải đạo Chính Thống giáo Nga, lấy danh hiệu [Đại vương công phu nhân Nga; theo truyền thống và đổi tên thành Yelizaveta Alekseevna. Sau khi tình cảm đã tràn đầy, họ quyết định làm đám cưới vào ngày 28 tháng 9 năm 1793[5] " đó là đám cưới được ví như Cupid và Psyche".[5] Nữ hoàng Yekaterina viết thư đến Thân vương xứ Ligne. Luise lúc này 14 tuổi còn Aleksandr 15 tuổi.
Đại vương công phu nhân Nga[sửa | sửa mã nguồn]
Kết hôn ở độ tuổi còn rất trẻ, cùng với bản tính nhút nhát và ngây thơ, Luise không hề được chuẩn bị kỹ càng cho vai trò mới ở Nga. Luise còn bị choáng ngợp bởi sự hào nhoáng của triều đình Nga và hoảng sợ trước những âm mưu xấu xa và toan tính lạnh lùng. Đại vương công phu nhân cũng kinh hoàng trước những mối quan hệ nhục dục xung quanh bản thân tại triều đình khi ngoại tình là một điều được chấp nhận như một hình thức giải trí. Chính Nữ hoàng Yekaterina II đã tạo nên tiền lệ cho lối sống phóng đãng tại triều đình Nga.[6] Thậm chí tình nhân của Nữ hoàng, Platon Zubov, có gắng quyến rũ Luise.[7]
Trước tình cảnh làm dâu nước Nga, Luise cảm thấy cô đơn và nhớ nhà, đặc biệt là sau khi em gái Friederike trở về Baden. Luise bị bỏ mặc trong một thế giới xa lạ và không thể là chính mình, kể cả khi chỉ có các người hầu và thị tùng. Tình yêu của Aleksandr là nguồn ai ủi duy nhất của Luise. "Không có chồng của em, người duy nhất khiến em hạnh phúc, em đã chết đi cả ngàn lần."[a][6]
Tính cách và ngoại hình[sửa | sửa mã nguồn]
Hoàng hậu Đế quốc Nga[sửa | sửa mã nguồn]
Những năm sau này và qua đời[sửa | sửa mã nguồn]
Con cái[sửa | sửa mã nguồn]
Luise xứ Baden và Aleksandr I của Nga có hai người con gái. Tuy nhiên hai vị Hoàng nữ đều qua đời khi còn nhỏ, điều này góp phần khiến hai vợ chồng gần nhau hơn trong thời gian ngắn:
- Mariya Aleksandrovna của Nga (Sankt-Petersburg, 29 tháng 5 năm 1799 – Sankt-Petersburg, 8 tháng 7 năm 1800).
- Yelizaveta Aleksandrovna của Nga (Sankt-Petersburg, 15 tháng 11 năm 1806 – Sankt-Petersburg, 12 tháng 5 năm 1808).
Tổ tiên[sửa | sửa mã nguồn]
Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Văn bản tiếng Anh: "Without my husband, who alone makes me happy, I should have died a thousand deaths."
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Luise xứ Baden. |
- ^ “Collections Online | British Museum”. www.britishmuseum.org. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2024.
- ^ Rapelli, Paola (2011). Symbols of Power in Art (bằng tiếng Anh). Getty Publications. tr. 169. ISBN 978-1-60606-066-7.
- ^ Fremont-Barnes 2007, tr. 16.
- ^ Lincoln 1981, tr. 356.
- ^ a b c Lincoln 1981, tr. 385.
- ^ a b Lincoln 1981, tr. 385–386.
- ^ Lincoln 1981, tr. 237.
- ^ Genealogie ascendante jusqu'au quatrieme degre inclusivement de tous les Rois et Princes de maisons souveraines de l'Europe actuellement vivans [Genealogy up to the fourth degree inclusive of all the Kings and Princes of sovereign houses of Europe currently living] (bằng tiếng Pháp). Bourdeaux: Frederic Guillaume Birnstiel. 1768. tr. 38 (cha), 69 (mẹ).
Nguồn tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]
- Bergamini, John. The Tragic Dynasty: A History of The Romanovs. Konecky&Konecky. ISBN 1-56852-160-X
- Lincoln, W. Bruce (1981). The Romanovs: Autocrats of All the Russias. New York : Dial Press. ISBN 978-0-306-40631-7.
- Rey, Marie-Pierre. Alexander I: The Tsar Who Defeated Napoleon. Northern Illinois University Press. ISBN 0875804667
- Troyat, Henri (2002). Alexander of Russia : Napoleon's Conqueror [Aleksandr I của Nga: Người chinh phục Napoléon]. New York : Grove Press. ISBN 978-0-8021-3949-8.
- Troyat, Henri (2000). Catherine the Great [Yekaterina Đại đế]. London : Phoenix. ISBN 978-1-84212-029-3.
- Fremont-Barnes, Gregory (2007). Encyclopedia of the Age of Political Revolutions and New Ideologies, 1760-1815. Westport, Conn. : Greenwood Press. ISBN 978-0-313-33445-0.