Giáo dục Nhật Bản
Giáo dục Nhật Bản mang tính bắt buộc ở cả cấp tiểu học và trung học cơ sở.[1] Hầu hết học sinh theo học tại trường công ở cấp trung học cơ sở, nhưng giáo dục dân lập lại phổ biến tại cấp trung học phổ thông và đại học.
Giáo dục trước tiểu học được cung cấp tại các trường mẫu giáo và trung tâm chăm sóc ban ngày. Các trung tâm chăm sóc ban ngày công và tư thục đón nhận trẻ từ dưới 1 tuổi đến 5 tuổi. Các chương trình dành cho trẻ từ 3-5 tuổi giống với trẻ ở trường mẫu giáo. Cách tiếp cận giáo dục tại trường mầm non thay đổi rất nhiều từ những môi trường phi cấu trúc tập trung vào việc vui chơi cho đến những môi trường cấu trúc cao tập trung vào việc đưa trẻ vượt qua kì thi tuyển vào trường tiểu học tư thục. Năm học bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào tháng 3, có kì nghỉ hè vào tháng 8 và kỳ nghỉ đông vào cuối tháng 12 đến đầu tháng 1 năm sau. Bên cạnh đó cũng có vài ngày nghỉ lễ giữa năm học.
Sinh viên Nhật Bản luôn xếp hạng cao trong số các sinh viên giữa các sinh viên OECD về chất lượng và hiệu quả trong các việc đọc sách văn, toán và Khoa học. Học sinh trung bình đạt 540 điểm trong phần thi đọc hiểu văn, toán và khoa học trong Chương trình đánh giá Sinh viên Quốc tế (PISA) của OECD và Nhật Bản có một trong những lực lượng lao động được đào tạo tốt nhất trong khối nước OECD. Những người trưởng thành tốt nghiệp đại học, đặc biệt về ngành khoa học và kĩ thuật được hưởng lợi kinh tế và xã hội từ việc giáo dục và kĩ năng của họ trong nền kinh tế công nghệ cao của Nhật Bản.[2] Mặc dù chi tiêu của mỗi sinh viên khá cao tại Nhật Bản, tổng chi tiêu so với GDP vẫn còn nhỏ. Năm 2015, chi tiêu công của Nhật Bản cho giáo dục chỉ chiếm 3,5% GDP, thấp hơn mức trung bình của OECD là 4,7%.[3]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ “Foreign Press Club of Japan Fact Book”. Fpcj.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2013.
- ^ “Japan” (PDF). OECD. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
- ^ Tomoko Otake. “Public education spending in Japan lowest in OECD for sixth straight year”. The Japan Times. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2016.
Đọc thêm
[sửa | sửa mã nguồn]- De Bary, William Theodore, Carol Gluck, Arthur E. Tiedemann. (2005). Sources of Japanese Tradition, Vol. 2. New York: Columbia University Press. ISBN 978-0-231-12984-8; OCLC 255020415
- Hebert, David G. (2011). Wind Bands and Cultural Identity in Japanese Schools. Springer press, 2011.
- Hood, Christopher P. Japanese Education Reform: Nakasone's Legacy, 2001, London: Routledge, ISBN 0-415-23283-X.
- Kelly, Boyd. (1999). Encyclopedia of Historians and Historical Writing, Vol. 1. London: Taylor & Francis. ISBN 978-1-884964-33-6
- Uno, Kathleen S. (1999). Passages to Modernity: Motherhood, Childhood, and Social Reform in Early Twentieth Century Japan. Hawai'i: University of Hawai'i Press. ISBN 978-0-8248-1619-3, ISBN 978-0-8248-2137-1.
- Những bài viết trên báo, bài viết hội thảo và những bài khác như The Times Colonist:
- Doig, Brian and Susie Groves. "Japanese Lesson Study: Teacher Professional Development through Communities of Inquiry." Mathematics Teacher Education and Development 2011, Vol. 13.1, 77–93.
- Shimizu, Yoshinori (Tokyo Gakugei University Faculty of Education). "[1] Lưu trữ 2018-07-12 tại Wayback Machine." ICMI-Second East Asia Regional Conference on Mathematics Education and Ninth Southeast Asian Conference on Mathematics Education, 27–ngày 31 tháng 5 năm 2002
- Takahashi, Akihiko (高橋 昭彦; DePaul University). "[2]." CRICED Mathematics Symposium, 2006.
Liên kết ngoài
[sửa | sửa mã nguồn]Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Giáo dục Nhật Bản. |
- Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ
- Information on education in Japan, OECD – contains indicators and information about Japan and how it compares to other OECD and non-OECD countries
- Diagram of Japanese education system, OECD – using 1997 ISCED classification of programmes and typical ages. (Also available in romanized Japanese.)