Bước tới nội dung

Giải bóng đá Ngoại hạng Anh 2004–05

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
FA Premier League
Mùa giải2004–05
Thời gian14 tháng 8 năm 2004 – 15 tháng 5 năm 2005
Vô địchChelsea
Danh hiệu Premier League thứ nhất
Danh hiệu vô địch nước Anh thứ 2
Xuống hạngCrystal Palace
Norwich City
Southampton
Champions LeagueChelsea
Arsenal
Manchester United
Everton
Liverpool (as Champions League winners)
UEFA CupBolton Wanderers
Middlesbrough
Intertoto CupNewcastle United
Số trận đấu380
Số bàn thắng975 (2,57 bàn mỗi trận)
Vua phá lướiThierry Henry
(25 bàn)
Thủ môn xuất sắc nhấtPetr Čech (24 trận sạch lưới)
Chiến thắng sân
nhà đậm nhất
Arsenal 7–0 Everton
(11 tháng 5 năm 2005)
Chiến thắng sân
khách đậm nhất
West Bromwich Albion 0–5 Liverpool
(26 tháng 12 năm 2004)
Trận có nhiều bàn thắng nhấtTottenham Hotspur 4–5 Arsenal
(13 tháng 11 năm 2004)
Chuỗi thắng dài nhất8 games[1]
Chelsea
Chuỗi bất bại dài nhất29 trận[1]
Chelsea
Chuỗi không
thắng dài nhất
15 trận[1]
West Bromwich Albion
Chuỗi thua dài nhất6 trận[1]
Bolton Wanderers
Tottenham Hotspur
Trận có nhiều khán giả nhất67,989
Manchester United 2–1 Portsmouth
(26 tháng 2 năm 2005)
Trận có ít khán giả nhất16,180
Fulham 1–0 West Bromwich Albion
(16 tháng 1 năm 2005)
Tổng số khán giả12,882,140
Số khán giả trung bình33,900

Giải bóng đá Ngoại hạng Anh mùa giải 2004–05 (được biết đến với tên gọi FA Barclays Premiership vì lý do tài trợ) là mùa giải thứ 13 của Giải Ngoại hạng Anh. Giải bắt đầu vào ngày 14 tháng 8 năm 2004 và kết thúc vào ngày 15 tháng 5 năm 2005. Câu lạc bộ Arsenal là nhà đương kim vô địch có nhiệm vụ bảo vệ danh hiệu sau khi đạt thành tích bất bại mùa giải trước. Câu lạc bộ Chelsea đã giành chức vô địch với kỷ lục 95 điểm phá vỡ kỷ lục trước đó được thiết lập bởi câu lạc bộ Manchester United trong mùa giải 1993–94 và sau đó thành tích này bị vượt qua bởi câu lạc bộ Manchester City trong mùa giải 2017–18 (với 100 điểm), câu lạc bộ Chelsea giành chức vô địch với chiến thắng 2–0 tại Sân vận động Reebok trước đội Bolton Wanderers. Chelsea cũng đã phá vỡ một số kỷ lục khác trong mùa giải lịch sử của họ, đáng chú ý nhất là phá vỡ kỷ lục về số trận thắng nhiều nhất trong một mùa giải Premier League duy nhất, giành được 29 chiến thắng trong giải đấu ở cả sân nhà và sân khách, sau đó kỷ lục đã bị chính Chelsea vượt qua trong mùa giải 2016–17.

Tổng quan

[sửa | sửa mã nguồn]

Arsenal là ứng cử viên sáng giá nhất cho chức vô địch sau khi kết thúc mùa giải trước với thành tích bất bại, nhưng họ cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh từ những đối thủ thường xuyên cạnh tranh với mình gần đây là Manchester UnitedChelsea, đội bóng màu xanh thành London đã được huấn luyện viên người Bồ Đào Nha tên là José Mourinho dẫn dắt, ông chính là người vừa giành chức vô địch UEFA Champions League với đội Porto. Liverpool cũng có một huấn luyện viên mới là Rafael Benítez người Tây Ban Nha, người vừa giành chức vô địch La LigaUEFA Cup với câu lạc bộ Valencia và được kỳ vọng sẽ cạnh tranh cho chức vô địch. Một sự thay đổi về huấn luyện viên khác tại một câu lạc bộ đang hướng tới những đỉnh cao vinh quang là câu lạc bộ Tottenham Hotspur, đội bóng này đã bổ nhiệm Jacques Santini, người vừa dẫn dắt đội tuyển Pháp vào tứ kết của Euro 2004.

Ở phía nửa sau của bảng xếp hạng, những đội được dự đoán có khả năng cao sẽ xuống hạng là Norwich City, Crystal PalaceWest Bromwich Albion, tất cả đều vừa mới được thăng hạng từ First Division (được đổi tên thành Championship trong mùa giải này). Everton, Manchester City, Blackburn RoversPortsmouth cũng được dự đoán sẽ gặp khó khăn, ba đội đầu tiên chỉ đứng ngay sau các vị trí xuống hạng ở mùa giải trước và Portsmouth đang ở mùa giải thứ hai chơi ở Ngoại hạng Anh.

Chuỗi trận bất bại kỷ lục 49 trận của Arsenal đã kết thúc vào ngày 24 tháng 10 năm 2004, khi Manchester United đánh bại họ với tỷ số 2–0 tại sân Old Trafford.

Xuống hạng

[sửa | sửa mã nguồn]

Lần đầu tiên kể từ khi Premier League ra đời vào năm 1992, không có đội nào xuống hạng trước ngày cuối cùng của mùa giải. Trong mỗi ba tuần cuối cùng của mùa giải, đội đứng cuối bảng xếp hạng vào đầu tuần đều kết thúc mùa giải ở ngoài khu vực xuống hạng. Vòng đấu cuối cùng của mùa giải bắt đầu với West Bromwich Albion ở vị trí cuối bảng, SouthamptonCrystal Palace hơn đội cuối bảng một điểm và Norwich City hơn đội cuối bảng hai điểm, ở vị trí an toàn cuối cùng. West Brom, đội đứng cuối bảng xếp hạng và cách vị trí an toàn tám điểm vào Ngày Giáng sinh, đã hoàn thành nhiệm vụ của mình bằng cách đánh bại Portsmouth với tỷ số 2–0. Norwich, đội duy nhất nắm trong tay số phận của mình , đã thua 0-6 trước Fulham và xuống hạng. Southampton đã vươn lên dẫn trước Manchester United trong khi trận đấu chỉ còn lại 10 phút nhờ bàn phản lưới nhà của John O'Shea, nhưng cuối cùng đã thua 1-2 và cũng phải xuống hạng. Crystal Palace, làm khách trên sân của Charlton Athletic, đang dẫn trước 2–1 sau 71 phút, nhưng khi còn tám phút nữa, Jonathan Fortune đã gỡ hòa cho Charlton để đẩy đối thủ Đông Nam London của họ xuống hạng. Nếu Palace giành chiến thắng, họ sẽ trụ hạng; mặt khác nếu không thắng, họ sẽ trở thành đội đầu tiên xuống hạng khỏi Premier League bốn lần. Kết quả là West Brom vẫn trụ hạng, trở thành câu lạc bộ đầu tiên trong lịch sử Premier League tránh được việc xuống hạng sau khi đứng cuối bảng vào dịp Giáng sinh.

Khi cả bốn trận đấu quyết định cho 3 suất xuống hạng kết thúc, các máy quay tập trung vào sân nhà của West Brom, The Hawthorns, khi các kết quả của các trận đấu 3 câu lạc bộ kia bắt đầu xuất hiện thì các cầu thủ và người hâm mộ nhận ra rằng họ đã sống sót một cách thần kỳ, một cuộc bạo loạn với hàng loạt cổ động viên tràn xuống sân đã nổ ra, với những lễ ăn mừng lớn. Người hâm mộ Portsmouth đã tham gia vào lễ ăn mừng vì thông qua việc thua cuộc, họ đã "giúp" West Brom đẩy đối thủ truyền kiếp Southampton xuống hạng.

Các đội bóng

[sửa | sửa mã nguồn]

20 đội bóng đã tham gia giải đấu – 17 đội đứng đầu từ mùa giải trước và ba đội thăng hạng từ First Division. Các đội thăng hạng là Norwich City, West Bromwich AlbionCrystal Palace, trở lại hạng đấu cao nhất sau 9, 1 và 6 năm vắng bóng. Họ thay thế Leicester City, Leeds UnitedWolverhampton Wanderers, những đội đã xuống hạng và chơi tại Championship. Leicester City và Wolverhampton Wanderers đều xuống hạng sau một mùa giải, trong khi Leeds United đã kết thúc thời kỳ đỉnh cao kéo dài 14 năm của mình.

Sân vận động và địa điểm

[sửa | sửa mã nguồn]
Các câu lạc bộ bóng đá Ngoại hạng Anh tại Greater London
Các câu lạc bộ bóng đá Premier League vùng West Midlands
Câu lạc bộ Địa điểm Sân vận động Sức chứa
Arsenal London (Highbury) Arsenal Stadium 38,419
Aston Villa Birmingham (Aston) Villa Park 42,553
Birmingham City Birmingham (Bordesley) St Andrew's 30,079
Blackburn Rovers Blackburn Ewood Park 31,367
Bolton Wanderers Bolton Reebok Stadium 28,723
Charlton Athletic London (Charlton) The Valley 27,111
Chelsea London (Fulham) Stamford Bridge 42,360
Crystal Palace London (Selhurst) Selhurst Park 25,073
Everton Liverpool (Walton) Goodison Park 40,569
Fulham London (Fulham) Craven Cottage[a] 24,600
Liverpool Liverpool (Anfield) Anfield 45,276
Manchester City Manchester (Bradford) City of Manchester Stadium 48,000
Manchester United Manchester (Old Trafford) Old Trafford 68,217
Middlesbrough Middlesbrough Riverside Stadium 35,049
Newcastle United Newcastle upon Tyne St James' Park 52,387
Norwich City Norwich Carrow Road 27,010
Portsmouth Portsmouth Fratton Park 20,220
Southampton Southampton St Mary's Stadium 32,505
Tottenham Hotspur London (Tottenham) White Hart Lane 36,240
West Bromwich Albion West Bromwich The Hawthorns 26,484
  1. ^ Fulham đã trở lại Craven Cottage trong mùa giải này sau hai năm cải tạo sân nhà.

Nhân sự và dụng cụ thi đấu

[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ Huấn luyện viên Đội trưởng Nhà sản xuất dụng cụ thi đấu Nhà tài trợ áo đấu
Arsenal Pháp Arsène Wenger Pháp Patrick Vieira Nike O2
Aston Villa Cộng hòa Ireland David O'Leary Thụy Điển Olof Mellberg Hummel DWS Investments
Birmingham City Anh Steve Bruce Cộng hòa Ireland Kenny Cunningham Diadora Flybe
Blackburn Rovers Wales Mark Hughes Anh Garry Flitcroft Lonsdale HSA
Bolton Wanderers Anh Sam Allardyce Nigeria Jay-Jay Okocha Reebok Reebok
Charlton Athletic Anh Alan Curbishley Cộng hòa Ireland Matt Holland Joma All:Sports
Chelsea Bồ Đào Nha José Mourinho Anh John Terry Umbro Emirates
Crystal Palace Bắc Ireland Iain Dowie Bắc Ireland Michael Hughes Diadora Churchill
Everton Scotland David Moyes Scotland David Weir Umbro Chang
Fulham Wales Chris Coleman Anh Lee Clark Puma dabs.com
Liverpool Tây Ban Nha Rafael Benítez Anh Steven Gerrard Reebok Carlsberg
Manchester City Anh Stuart Pearce Pháp Sylvain Distin Reebok Thomas Cook
Manchester United Scotland Alex Ferguson Cộng hòa Ireland Roy Keane Nike Vodafone
Middlesbrough Anh Steve McClaren Anh Gareth Southgate Erreà 888.com
Newcastle United Scotland Graeme Souness Anh Alan Shearer Adidas Northern Rock
Norwich City Bắc Ireland Nigel Worthington Anh Craig Fleming Xara Proton
Portsmouth Pháp Alain Perrin Hà Lan Arjan De Zeeuw Pompey Sport TY
Southampton Anh Harry Redknapp Scotland Nigel Quashie Saints Friends Provident
Tottenham Hotspur Hà Lan Martin Jol Anh Ledley King Kappa Thomson Holidays
West Bromwich Albion Anh Bryan Robson Anh Kevin Campbell Diadora T-Mobile

Bảng xếp hạng

[sửa | sửa mã nguồn]
VT Đội ST T H B BT BB HS Đ Giành quyền tham dự
hoặc xuống hạng
1 Chelsea (C) 38 29 8 1 72 15 +57 95 Điều kiện tham dự Vòng bảng Champions League
2 Arsenal 38 25 8 5 87 36 +51 83
3 Manchester United 38 22 11 5 58 26 +32 77 Điều kiện tham dự Vòng loại thứ ba Champions League
4 Everton 38 18 7 13 45 46 −1 61
5 Liverpool 38 17 7 14 52 41 +11 58 Điều kiện tham dự Vòng loại đầu tiên Champions League[a]
6 Bolton Wanderers 38 16 10 12 49 44 +5 58 Điều kiện tham dự Vòng đầu tiên UEFA Cup[b]
7 Middlesbrough 38 14 13 11 53 46 +7 55
8 Manchester City 38 13 13 12 47 39 +8 52
9 Tottenham Hotspur 38 14 10 14 47 41 +6 52
10 Aston Villa 38 12 11 15 45 52 −7 47
11 Charlton Athletic 38 12 10 16 42 58 −16 46
12 Birmingham City 38 11 12 15 40 46 −6 45
13 Fulham 38 12 8 18 52 60 −8 44
14 Newcastle United 38 10 14 14 47 57 −10 44 Điều kiện tham dự Vòng 3 Intertoto Cup
15 Blackburn Rovers 38 9 15 14 32 43 −11 42
16 Portsmouth 38 10 9 19 43 59 −16 39
17 West Bromwich Albion 38 6 16 16 36 61 −25 34
18 Crystal Palace (R) 38 7 12 19 41 62 −21 33 Xuống chơi tại Football League Championship
19 Norwich City (R) 38 7 12 19 42 77 −35 33
20 Southampton (R) 38 6 14 18 45 66 −21 32
Nguồn: [3]
Quy tắc xếp hạng: 1) điểm; 2) hiệu số bàn thắng-bại; 3) số bàn thắng ghi được.
(C) Vô địch; (R) Xuống hạng
Ghi chú:
  1. ^ Mặc dù không đủ điều kiện tham dự Champions League với tư cách là một trong bốn câu lạc bộ Anh xếp ở bốn vị trí đầu tiển trên bảng xếp hạng, Liverpool đã được trao một suất tham gia đặc biệt để bảo vệ danh hiệu với tư cách là nhà vô địch UEFA Champions League 2005. Tuy nhiên, họ buộc phải tham gia vòng loại đầu tiên.[2]
  2. ^ Vì trận chung kết của Cúp FA được diễn ra giữa 2 đội ArsenalManchester United cũng như Câu lạc bộ bóng đá Chelsea, đội vô địch Cúp Liên đoàn Anh 2004–05 đã đủ điều kiện tham dự Champions League, và đội đứng thứ năm (Câu lạc bộ bóng đá Liverpool) đã được đặc cách tham dự Champions League, các đội đứng thứ sáu và thứ bảy tại Premier League đã được trao quyền tham dự UEFA Cup.

Vua phá lưới

[sửa | sửa mã nguồn]
Xếp hạng Cầu thủ Câu lạc bộ Bàn thắng
1 Pháp Thierry Henry Arsenal 25
2 Anh Andy Johnson Crystal Palace 21
3 Pháp Robert Pires Arsenal 14
4 Anh Jermain Defoe Tottenham Hotspur 13
Hà Lan Jimmy Floyd Hasselbaink Middlesbrough 13
Anh Frank Lampard Chelsea 13
Nigeria Yakubu Portsmouth 13
8 Anh Andy Cole Fulham 12
Anh Peter Crouch Southampton 12
Iceland Eiður Guðjohnsen Chelsea 12

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d "English Premier League 2004–05". statto.com. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2015.
  2. ^ "Liverpool FC allowed to defend title" (PDF). UEFA. ngày 10 tháng 6 năm 2005. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 10 tháng 6 năm 2005. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2021.
  3. ^ "2004–05 Premier League table". Premier League. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.