Hà Văn Lâu
Hà Văn Lâu | |
---|---|
Tiểu sử | |
Biệt danh | Sáu Lâu |
Quốc tịch | ![]() |
Sinh | 9 tháng 12 năm 1918 Huế |
Mất | 6 tháng 12 năm 2016 |
Binh nghiệp | |
Thuộc | ![]() |
Năm tại ngũ | 1945-1970 |
Cấp bậc | ![]() |
Đơn vị | Quân đội Nhân dân Việt Nam |
Chỉ huy | ![]() |
Tham chiến | Kháng chiến chống Pháp |
Khen thưởng | Huân chương Độc lập hạng nhất Huân chương Quân công hạng nhất Huân chương Chiến công hạng nhất Huân chương Chiến thắng hạng nhất |
Công việc khác | Chủ tịch Huế Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đại sứ tại Cuba (18/1/1974-) Đại sứ tại Pháp Đại sứ tại Liên Hợp Quốc |
Hà Văn Lâu (9 tháng 12 năm 1918 – 6 tháng 12 năm 2016) là một chỉ huy quân sự, Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam và là một nhà ngoại giao Việt Nam.
Mục lục
Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]
Hà Văn Lâu sinh ngày 9 tháng 12 năm 1918 ở làng Sình, ngã ba sông Hương, cách Huế không xa. Cha ông là thầy giáo tiểu học trường làng Hà Văn Phu, còn gọi là thầy Cửu Phu.
Khi lên 7 thì cha ông qua đời, được bà ngoại và mẹ nuôi nấng ăn học. Ông tốt nghiệp bậc Thành chung, nhưng do không có điều kiện nên phải thi công chức vào ngạch thư ký Tòa sứ.
Với ý định du học Pháp, ông xin vào học một trường quân sự của Pháp ở Đông Dương, sau đó tốt nghiệp hạ sĩ quan trù bị (1942). Tuy nhiên, chính quyền Pháp sau đó giải tán các trường đào tạo huấn luyện và đình chỉ tăng quân, ông buộc lại phải trở về nghề cũ.
Thời gian này, ông gặp bà Nguyễn Tăng Diệu Hương, con nhà dòng dõi quý tộc trong triều đình Huế, rồi nên duyên vợ chồng.
Vì hoàn cảnh gia đình, ông thi vào ngành thương chánh. Năm 1943, ông được bổ nhiệm trông coi một đồng muối ở phủ Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1944, ông gia nhập mặt trận Việt Minh.
Hoạt động quân sự[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1945, ông là giảng viên và huấn luyện quân sự tại trường Thanh niên Tiền tuyến, trường quân sự đầu tiên do chính phủ Trần Trọng Kim lập [1].
Cách mạng tháng Tám thành công, do có kinh nghiệm huấn luyện tự vệ thời tiền Khởi nghĩa, ông được cử làm Ủy viên quân sự Nha Trang, Hiệu trưởng Trường huấn luyên quân sự Đồng Đế.
Sau khi quân Pháp quay lại xâm lược, ông làm Chỉ huy phó kiêm Tham mưu trưởng Mặt trận Nha Trang.
Sau Hiệp định Sơ bộ (6/3/1945), ông được cử làm Trưởng phái đoàn sĩ quan liên lạc của Việt Nam ở Khánh Hòa-Nha Trang.
Sau 7 tuần, quân Pháp phá bỏ đình chiến, đánh bật quân Việt Nam rút về Phú Yên. Quân chủ lực Việt Nam của ba tỉnh Khánh Hòa, Phan Thiết, Ninh Thuận tổ chức thành một đại đoàn-Đại đoàn 27. Cao Văn Khánh làm Đại đoàn trưởng và Hà Văn Lâu làm Đại đoàn phó.
Đầu tháng 12/1946, thì Mặt trận Ninh Hòa bị vỡ. Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ kiêm Chủ tịch Việt Minh Trung Bộ Nguyễn Chí Thanh triệu Hà Văn Lâu về Huế.
Tại đây, ông làm Trung đoàn trưởng trung đoàn Trần Cao Vân, Chỉ huy trưởng Mặt trận Huế sau đó kiêm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Thừa Thiên Huế.
Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, ông chỉ huy Mặt trận Huế. Sau đó rút quân về xây dựng chiến khu Mỹ Hòa.
Năm 1949, trên chiến trường chính Bắc Bộ, quân chủ lực mở chiến dịch tấn công vào quân đội viễn chinh Pháp ở các tỉnh Hòa Bình, Phúc Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang. Mặt trận Bình-Trị-Thiên mở Chiến dịch phối hợp do Hà Văn Lâu làm Chỉ huy trưởng.
Năm 1951, Hà Văn Lâu được bổ nhiệm về công tác ở Cục tác chiến giữ chức Cục phó (Cục trưởng Đỗ Đức Kiên). Với cương vị này, ông tham gia chỉ huy chiến dịch đông – xuân 1951 – 1952, chiến dịch thu-đông 1952 và chiến cục đông – xuân 1953 – 1954 với đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Cấp bậc của ông trong thời gian này là đại tá.
Công tác ngoại giao[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1954 ông tham dự Hội nghị Genève với vai trò chuyên viên quân sự của phái đoàn Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
Năm 1962 ông tham dự Hôi nghị quốc tế về Lào, 1968 - dự hội nghị quốc tế về Campuchia, các hội nghị về phong trào không liên kết...
Sau đó ông làm đại sứ Việt Nam tại Cuba (từ 18/1/1974, thay Nguyễn Ngọc Sơn), kiêm Cộng hòa Argentina (từ 21-8-1974, đến 31-5-1975 được thay bởi Nguyễn Tiến Thông), kiêm nhiệm chức Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Jamaica và Guyana.[1], tại Liên Hợp Quốc năm 1978 – 1982.
Năm 1982 ông được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và Trưởng ban Việt kiều Trung ương, năm 1984 giữ chức Đại sứ Việt Nam tại Pháp. kiêm đại sứ Việt nam tại Bỉ, Hà Lan và Luxemburg.
Ông mất ngày 6 tháng 12 năm 2016 tại TPHCM.[2]
Đôi dép Bình-Trị-Thiên[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ http://www.na.gov.vn/Sach_QH/VKQHTTtapV/1977/QH1977_15.htm
- ^ “Nguyên Thứ trưởng Ngoại giao Hà Văn Lâu qua đời - VietNamNet”. VietNamNet. Truy cập 7 tháng 12 năm 2016.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Giao lưu trực tuyến với Đại tá Hà Văn Lâu và ông Lê Danh
- Hà Văn Lâu - tấm lòng cách mạng
- Ông Hà Văn Lâu gặp Bác
- Tình yêu từ bến làng Sình
- Chuyện đời ngài đại sứ lừng danh Việt Nam
- Xúc động xem những bút tích của Bác Hồ
- Đôi dép Bình Trị Thiên
- Diễn biến chính của Hội nghị Paris về Việt Nam
- Cùng nhau Nam tiến
- Gặp bí mật tại Pa-ri và trở về Hà Nội
- Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Ngài Tơrilôki Nát Côn - Chủ tịch Ủy ban giám sát và kiểm soát quốc tế việc thực hiện Hiệp định Giơnevơ năm 1954 tại Việt Nam
- Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Thừa Thiên (28/7/1947)
- Hồng Nhung là Tùy viên văn hóa Malta tại VN
- Kỷ niệm đáng nhớ của một nhà ngoại giao
- Sinh 1918
- Mất 2016
- Người Huế
- Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam
- Chỉ huy quân sự Việt Nam (Chiến tranh Đông Dương)
- Nhà ngoại giao Việt Nam
- Hàm Đại sứ (Việt Nam)
- Thứ trưởng Bộ Ngoại giao (Việt Nam)
- Ngoại giao trong Chiến tranh Đông Dương
- Huân chương Độc lập
- Huân chương Chiến công
- Huân chương Quân công
- Huân chương Chiến thắng
- Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tỉnh Thừa Thiên - Huế