Hưng Yên
|
Hưng Yên
|
|||
|---|---|---|---|
| Tỉnh | |||
Biểu trưng | |||
| Biệt danh | Xứ nhãn lồng Quê lúa Quê hương 5 tấn Thủ phủ bánh cáy | ||
| Hành chính | |||
| Quốc gia | |||
| Vùng | Đồng bằng sông Hồng (địa lý) Vùng thủ đô Hà Nội (đô thị) | ||
| Trung tâm hành chính | Phường Phố Hiến | ||
| Trụ sở UBND | Số 10, đường Chùa Chuông, phường Phố Hiến | ||
| Phân chia hành chính | 11 phường, 93 xã | ||
| Thành lập |
| ||
| Tổ chức lãnh đạo | |||
| Chủ tịch UBND | Phạm Quang Ngọc | ||
| Hội đồng nhân dân | 53 đại biểu | ||
| Chủ tịch HĐND | Trần Quốc Văn | ||
| Chánh án TAND | Đỗ Mạnh Tăng | ||
| Viện trưởng VKSND | Nguyễn Văn Viện | ||
| Bí thư Tỉnh ủy | Nguyễn Hữu Nghĩa | ||
| Địa lý | |||
| Tọa độ: 20°51′16″B 106°00′58″Đ / 20,85432°B 106,016006°Đ | |||
| |||
| Diện tích | 2.514,81 km²[1] | ||
| Dân số (2025) | |||
| Tổng cộng | 3.567.943 người[1] | ||
| Thành thị | 553.505 người (15,51%) | ||
| Nông thôn | 3.014.438 người (84,49%) | ||
| Mật độ | 1.418 người/km² | ||
| Dân tộc | Kinh | ||
| Kinh tế (2022) | |||
| GRDP | 131.642 tỉ đồng (5,72 tỉ USD) | ||
| GRDP đầu người | 102,3 triệu đồng (4.396 USD) | ||
| Khác | |||
| Mã địa lý | VN-66 | ||
| Mã hành chính | 33 | ||
| Mã bưu chính | 17xxx | ||
| Mã điện thoại | 221 | ||
| Biển số xe | 89, 17 | ||
| Website | hungyen | ||
Hưng Yên là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam. Đây là tỉnh duy nhất ở khu vực Bắc Bộ có địa hình hoàn toàn là đồng bằng, không có đồi núi.
Là vùng đất địa linh nhân kiệt, có bề dày văn hóa - lịch sử lâu đời, Hưng Yên là quê hương phát tích của vương triều Trần và nhiều danh nhân nổi tiếng như: Triệu Việt Vương, Trần Thủ Độ, Phạm Ngũ Lão, Hải Thượng Lãn Ông, Lê Quý Đôn, Nguyễn Văn Linh, Hoàng Văn Thái...
Phố Hiến - trung tâm hành chính của tỉnh ngày nay, là một thương cảng cổ vang danh xứ Bắc ở thế kỷ XVI - XVII. Danh tiếng phồn hoa một thời được thể hiện qua câu ca: “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Nơi đây từng được sánh ngang với kinh đô Thăng Long về sự sầm uất với luồng thuyền bè và thương nhân đến từ hơn 10 quốc gia trên thế giới như Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha...
Với vị trí địa lý thuận lợi, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Hưng Yên đóng vai trò là cầu nối quan trọng giữa các trung tâm kinh tế lớn. Tỉnh hiện nay cũng đang phát triển mạnh mẽ về công nghiệp, thương mại và dịch vụ, hướng tới mục tiêu xây dựng đô thị văn minh và hiện đại, song vẫn giữ gìn nét đẹp văn hóa truyền thống của vùng đất "Phố Hiến xưa".
Theo dữ liệu sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, sau khi sáp nhập với tỉnh Thái Bình, tỉnh Hưng Yên có diện tích: 2.514,81 km² (xếp thứ 34); dân số: 3.567.943 người (xếp thứ 16); GRDP năm 2024: 292.602.496 triệu VNĐ (xếp thứ 12); thu ngân sách năm 2024: 53.112.677 triệu VNĐ (xếp thứ 10); thu nhập bình quân năm 2024: 69,93 triệu VNĐ/năm (xếp thứ 6).[2]
Lịch sử
[sửa | sửa mã nguồn]Thời Bắc thuộc
[sửa | sửa mã nguồn]Từ thời Hùng Vương đến thời kỳ Bắc thuộc, vùng đất Hưng Yên có tên là Tượng Quận.
Cho đến thời nhà Triệu và sau đó là nhà Hán, vùng đất này được đổi tên thành quận Giao Chỉ. Năm 607, dưới triều Tùy, đất Giao Châu được chia thành nhiều quận, Hưng Yên khi đó vẫn thuộc quận Giao Chỉ. Năm 679, triều Đường tổ chức lại đơn vị hành chính, chia Giao Châu thành các huyện, trong đó vùng Hưng Yên thuộc huyện Vũ Bình.
Thời phong kiến độc lập
[sửa | sửa mã nguồn]Dưới thời Ngô năm 938, Hưng Yên thuộc đất Đằng Châu.
Năm 974, dưới triều Đinh, cả nước được chia thành các đạo, Hưng Yên thuộc Đằng Đạo.
Năm 1002, thời Tiền Lê, hệ thống đạo được đổi thành lộ, phủ và châu, vùng Hưng Yên thuộc về Đằng Châu. Năm 1005, vùng Đằng Châu được đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình.
Năm 1010 đến 1222, thời Lý chia cả nước ra thành các lộ, và Hưng Yên thuộc Lộ Khoái.
Đến năm 1242, triều Trần tiếp tục cải tổ hành chính, Hưng Yên thuộc Khoái Lộ.
Năm 1407, khi nhà Minh đô hộ, An Nam bị đổi thành Giao Chỉ, vùng Hưng Yên khi đó thuộc phủ Kiến Xương.

Năm 1426 đến năm 1428, dưới thời Hậu Lê, chia Đông Đô làm 4 đạo, Hưng Yên thuộc Nam Đạo. Năm 1466, Hưng Yên thuộc thừa tuyên Thiên Trường đặt vào năm Quang Thuận thứ 10 đời Lê. Năm 1469, thừa tuyên Thiên Trường đổi thành Sơn Nam. Đến năm Cảnh Hưng thứ 2 thời Hậu Lê (1741), chia Sơn Nam thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ.
Đời nhà Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), Sơn Nam Thượng đổi thành trấn Sơn Nam, còn Sơn Nam Hạ thì gọi là trấn Nam Định. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), tên tỉnh Hưng Yên lần đầu xuất hiện chính thức, được thành lập gồm các huyện Đông Yên, Kim Động, Thiên Thi, Tiên Lữ, Phù Dung của trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà của trấn Nam Định. Năm 1842, đổi tên huyện Phù Dung thành huyện Phù Cừ.
Năm vua Tự Đức thứ 15 (1862), đổi huyện Thiên Thi thành huyện Ân Thi.
Thời Pháp thuộc
[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1885, đổi tên huyện Đường Hào thành huyện Mỹ Hào.[3][4]
Ngày 21 tháng 3 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình, gồm các huyện Vũ Tiên, Thư Trì, Chân Định, Tiền Hải, Đông Quan, Thuỵ Anh, Thanh Quan, Quỳnh Côi và Phụ Dực tách từ tỉnh Nam Định) và huyện Thần Khê (tách từ tỉnh Hưng Yên).


Ngày 25 tháng 2 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập đạo Bãi Sậy, gồm 4 huyện:
- Huyện Yên Mỹ: Được thành lập từ một số tổng huyện Đông Yên, Ân Thi của tỉnh Hưng Yên; một số tổng của huyện Mỹ Hào của tỉnh Hải Dương, một số tổng của huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh.
- Huyện Mỹ Hào: Gồm các tổng còn lại sau khi cắt sang huyện Yên Mỹ.
- Huyện Cẩm Lương: Gồm một số tổng thuộc huyện Cẩm Giàng của tỉnh Hải Dương, một số tổng thuộc huyện Lương Tài và Siêu Loại của tỉnh Bắc Ninh.
- Huyện Văn Lâm: Chính thức được thành lập gồm một số tổng thuộc 3 huyện Văn Giang, Gia Lâm và Siêu Loại của tỉnh Bắc Ninh.
Trong năm 1891, hai lần Toàn quyền Đông Dương ra nghị định (12-4) và quyết định (32-11) để bãi bỏ đạo Bãi Sậy, nhập các huyện Yên Mỹ, Mỹ Hào, Văn Lâm vào tỉnh Hưng Yên.
Ngày 28 tháng 11 năm 1894, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà thuộc tỉnh Hưng Yên sáp nhập vào tỉnh Thái Bình; lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình.
Ngày 4 tháng 2 năm 1895, Kinh lược sứ Bắc Kỳ ra quyết định sáp nhập các làng Kỳ Bá, Bồ Xuyên vào phủ lỵ Kiến Xương để lập thị xã Thái Bình.
Thời hiện đại
[sửa | sửa mã nguồn]Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, các huyện có sở lỵ phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trước đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xương, Thần Khê thành Tiên Hưng, Đông Yên thành Khoái Châu.
Khi đó, tỉnh Thái Bình có 13 đơn vị hành chính gồm thị xã Thái Bình và 12 huyện: Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Kiến Xương, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Tiên Hưng, Vũ Tiên.
Ngày 15 tháng 8 năm 1946, theo Nghị định số 1216 của Uỷ ban Hành chính Bắc Bộ thành lập thị xã Hưng Yên gồm 2 khu phố Đằng Giang và Đầu Lĩnh.
Tháng 2 năm 1947, huyện Văn Giang của tỉnh Bắc Ninh được sáp nhập vào tỉnh Hưng Yên. Lúc này, tỉnh Hưng Yên gồm các thị xã Hưng Yên và các huyện Văn Lâm, Văn Giang, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Khoái Châu, Kim Động, Ân Thi, Tiên Lữ và Phù Cừ.
Ngày 2 tháng 12 năm 1955, điều chỉnh địa giới của các huyện Đông Quan, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thụy Anh, Tiên Hưng, Tiền Hải.[5]
Ngày 28 tháng 2 năm 1958, điều chỉnh địa giới của ba huyện Phụ Dực, Quỳnh Côi và Thụy Anh.[6]
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, xã Văn Đức thuộc huyện Văn Giang được sáp nhập về huyện Gia Lâm của thành phố Hà Nội.[7]
Ngày 19 tháng 4 năm 1963, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Vũ Tiên và Thư Trì để mở rộng thị xã Thái Bình.
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, tỉnh Hưng Yên và tỉnh Hải Dương được sáp nhập với nhau, lấy tên là tỉnh Hải Hưng, tỉnh lỵ được đặt tại thị xã Hải Dương (nay là thành phố Hải Dương).[8]
Ngày 17 tháng 6 năm 1969, 2 huyện Hưng Nhân, Duyên Hà và 5 xã: Bắc Sơn, Đông Đô, Hòa Bình, Chi Lăng và Tây Đô của huyện Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Hưng Hà; huyện Đông Quan và phần còn lại của huyện Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Đông Hưng; 2 huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực hợp nhất thành huyện Quỳnh Phụ; 2 huyện Thái Ninh và Thụy Anh hợp nhất thành huyện Thái Thụy; 13 xã của huyện Vũ Tiên được sáp nhập vào huyện Kiến Xương, phần còn lại của huyện Vũ Tiên và Thư Trì hợp nhất thành huyện Vũ Thư. Tỉnh Thái Bình còn 1 thị xã và 7 huyện.[9]
Năm 1975, thị xã Hưng Yên gồm 2 phường Lê Lợi, Minh Khai và xã Hồng Châu.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Phù Cừ và Tiên Lữ thành huyện Phù Tiên; hợp nhất 2 huyện Văn Giang và Yên Mỹ thành huyện Văn Yên; hợp nhất 2 huyện Văn Lâm và Mỹ Hào thành huyện Văn Mỹ.[10]
Ngày 24 tháng 2 năm 1979, hợp nhất 2 huyện Kim Động và Ân Thi thành huyện Kim Thi; hợp nhất huyện Văn Mỹ và 1 phần huyện Văn Yên thành huyện Mỹ Văn; hợp nhất phần còn lại của huyện Văn Yên và huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang.[11]
Ngày 4 tháng 1 năm 1982, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Kim Thi để mở rộng thị xã Hưng Yên.
Ngày 8 tháng 4 năm 1982, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Vũ Thư để mở rộng thị xã Thái Bình.
Ngày 20 tháng 3 năm 1986, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Vũ Thư và Đông Hưng để mở rộng thị xã Thái Bình.
Ngày 27 tháng 1 năm 1996, chia huyện Kim Thi thành 2 huyện: Kim Động và Ân Thi.[12]
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tái lập tỉnh Hưng Yên từ tỉnh Hải Hưng. Sau khi tách ra, tỉnh Hưng Yên có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Hưng Yên và 5 huyện: Ân Thi, Châu Giang, Kim Động, Mỹ Văn, Phù Tiên.[13]
Ngày 24 tháng 2 năm 1997, chia huyện Phù Tiên thành 2 huyện: Phù Cừ và Tiên Lữ.[14]
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, chia huyện Châu Giang thành 2 huyện: Khoái Châu và Văn Giang; chia huyện Mỹ Văn thành 3 huyện: Mỹ Hào, Văn Lâm, Yên Mỹ.[15]
Ngày 23 tháng 9 năm 2003, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Kim Động và Tiên Lữ để mở rộng thị xã Hưng Yên.[16]
Ngày 18 tháng 4 năm 2003, thị xã Thái Bình được công nhận là đô thị loại III.
Ngày 29 tháng 4 năm 2004, chuyển thị xã Thái Bình thành thành phố Thái Bình. Tỉnh Thái Bình có 1 thành phố và 7 huyện như hiện nay.
Vào ngày 30 tháng 7 năm 2007, thị xã Hưng Yên đã chính thức trở thành đô thị loại III theo Quyết định số 1012/QĐ-BXD ngày 17 tháng 7 năm 2007 của Bộ Xây dựng.
Ngày 19 tháng 1 năm 2009, chuyển thị xã Hưng Yên thành thành phố Hưng Yên.[17]
Ngày 6 tháng 8 năm 2013, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Kim Động và Tiên Lữ để mở rộng thị xã Hưng Yên.
Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2418/QĐ-TTg công nhận thành phố Thái Bình là đô thị loại II.
Ngày 1 tháng 5 năm 2019, chuyển huyện Mỹ Hào thành thị xã Mỹ Hào.[18]
Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội ban hành Nghị quyết số 202/2025/QH15[1] về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 12 tháng 6 năm 2025). Theo đó, sáp nhập tỉnh Thái Bình vào tỉnh Hưng Yên, trung tâm hành chính đặt tại tỉnh Hưng Yên hiện nay.
Địa lý
[sửa | sửa mã nguồn]Vị trí và lãnh thổ
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh Hưng Yên nằm ở trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng, có vị trí địa lý:
- Phía Đông giáp với Vịnh Bắc Bộ (thuộc Biển Đông) và thành phố Hải Phòng.
- Phía Tây giáp với thủ đô Hà Nội.
- Phía Nam giáp với tỉnh Ninh Bình.
- Phía Bắc giáp với thành phố Hải Phòng và tỉnh Bắc Ninh.
Tỉnh Hưng Yên thuộc quy hoạch Vùng thủ đô Hà Nội. Trung tâm hành chính của tỉnh đặt tại phường Phố Hiến, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội 60 km về phía Đông Nam, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 112 km về hướng Tây Nam theo đường bộ.
Sau khi hợp nhất với tỉnh Thái Bình, diện tích của tỉnh Hưng Yên là 2.514,81 km², đứng hạng 34 trên tổng số 34 tỉnh/thành phố sau sáp nhập, là tỉnh có diện tích nhỏ nhất Việt Nam.
Điều kiện tự nhiên
[sửa | sửa mã nguồn]Địa hình
[sửa | sửa mã nguồn]
Địa hình của tỉnh Hưng Yên khá bằng phẳng, chủ yếu là đất phù sa màu mỡ, không có đồi núi hay vùng cao, đặc trưng của vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Độ cao trung bình dao động từ 2 đến 6 mét so với mực nước biển và có xu hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông. Địa hình hàng năm được bồi đắp thêm phù sa, ít bị chia cắt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng và tổ chức sản xuất nông nghiệp quy mô lớn.
Hưng Yên có mạng lưới ao, hồ, đầm và sông ngòi khá dày đặc với hệ thống sông Hồng và các phân lưu của nó như sông Luộc, sông Trà Lý. Bên cạnh đó, Hưng Yên còn có các hệ thống sông nhỏ hơn như: sông Cửu An, sông Tây Kẻ Sặt, sông Hoan Ái, sông Nghĩa Trụ, sông Điện Biên, sông Kim Sơn (đều thuộc hệ thống sông Bắc Hưng Hải), sông Hóa, sông Diêm Hộ, sông Tiên Hưng... là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và cả giao thông đường thuỷ.
Sau khi hợp nhất với tỉnh Thái Bình, tỉnh Hưng Yên có khoảng hơn 52 km bờ biển, có nhiều cửa sông lớn đổ ra biển như cửa Thái Bình, cửa Diêm Hộ, cửa Ba Lạt, tạo nên vùng cửa sông - ven biển giàu phù sa.
Khí hậu
[sửa | sửa mã nguồn]Hưng Yên thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23,2 °C, nhiệt độ trung bình mùa hè 25 °C, mùa đông dưới 20 °C. Lượng mưa trung bình dao động trong khoảng 1.500 - 2.000 mm, trong đó tập trung từ tháng 5 đến tháng 10 mưa (chiếm 80 - 85% lượng mưa cả năm). Số giờ nắng trung bình hàng năm khoảng 1.400 giờ (116,7 giờ/tháng), trong đó từ tháng 5 đến tháng 10 trung bình 187 giờ nắng/tháng, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trung bình 86 giờ nắng/tháng.
Khí hậu Hưng Yên chia làm 2 mùa chính: mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau với Gió mùa Đông Bắc là chủ đạo, thời tiết nửa đầu mùa đông là kiểu thời tiết lạnh khô, nửa cuối mùa đông là kiểu thời tiết lạnh ẩm. Mùa hạ từ tháng 5 đến tháng 9 với hướng gió chủ đạo là gió mùa Đông Nam thời tiết nóng và mưa nhiều.
| Dữ liệu khí hậu của tỉnh Hưng Yên (2009) | |||||||||||||
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
| Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
| Cao kỉ lục °C (°F) | 32.0 (89.6) |
32.6 (90.7) |
37.0 (98.6) |
37.4 (99.3) |
38.5 (101.3) |
39.4 (102.9) |
38.4 (101.1) |
37.5 (99.5) |
35.2 (95.4) |
34.0 (93.2) |
34.5 (94.1) |
30.5 (86.9) |
39.4 (102.9) |
| Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 19.5 (67.1) |
19.7 (67.5) |
22.3 (72.1) |
26.7 (80.1) |
30.9 (87.6) |
32.4 (90.3) |
32.7 (90.9) |
31.7 (89.1) |
30.5 (86.9) |
28.3 (82.9) |
25.2 (77.4) |
21.7 (71.1) |
26.8 (80.2) |
| Trung bình ngày °C (°F) | 16.2 (61.2) |
16.9 (62.4) |
19.6 (67.3) |
23.5 (74.3) |
27.0 (80.6) |
28.6 (83.5) |
29.0 (84.2) |
28.4 (83.1) |
27.1 (80.8) |
24.5 (76.1) |
21.1 (70.0) |
17.8 (64.0) |
23.3 (73.9) |
| Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 14.0 (57.2) |
15.0 (59.0) |
17.8 (64.0) |
21.4 (70.5) |
24.2 (75.6) |
25.8 (78.4) |
26.3 (79.3) |
25.8 (78.4) |
24.6 (76.3) |
21.8 (71.2) |
18.4 (65.1) |
15.1 (59.2) |
20.8 (69.4) |
| Thấp kỉ lục °C (°F) | 4.9 (40.8) |
5.3 (41.5) |
6.6 (43.9) |
12.2 (54.0) |
16.5 (61.7) |
19.4 (66.9) |
20.6 (69.1) |
21.8 (71.2) |
16.5 (61.7) |
12.5 (54.5) |
8.4 (47.1) |
4.8 (40.6) |
4.8 (40.6) |
| Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 26 (1.0) |
25 (1.0) |
48 (1.9) |
92 (3.6) |
172 (6.8) |
229 (9.0) |
219 (8.6) |
286 (11.3) |
261 (10.3) |
187 (7.4) |
75 (3.0) |
24 (0.9) |
1.644 (64.7) |
| Số ngày giáng thủy trung bình | 9.1 | 12.8 | 16.6 | 13.8 | 13.1 | 14.2 | 13.1 | 15.5 | 13.7 | 11.2 | 7.3 | 5.5 | 146.0 |
| Độ ẩm tương đối trung bình (%) | 85.2 | 87.6 | 90.1 | 89.8 | 86.2 | 84.4 | 84.0 | 87.1 | 86.9 | 84.8 | 82.6 | 82.4 | 85.9 |
| Số giờ nắng trung bình tháng | 75 | 42 | 49 | 93 | 187 | 178 | 205 | 179 | 179 | 173 | 139 | 127 | 1.625 |
| Nguồn: Vietnam Institute for Building Science and Technology[19] | |||||||||||||
Tài nguyên và khoáng sản
[sửa | sửa mã nguồn]Hưng Yên không có nhiều nguồn tài nguyên và khoáng sản. Các loại tài nguyên và khoáng sản chính gồm: cát đen, đất sét, nước khoáng, khí đốt và than nâu. Trong đó, cát đen là khoáng sản có trữ lượng lớn và được khai thác phổ biến nhất[20], tập trung ở ven sông Hồng, sông Luộc và sông Trà Lý. Ngoài ra, Hưng Yên còn có mỏ than nâu ở huyện Khoái Châu, khí đốt ở huyện Tiền Hải và nguồn nước khoáng ở huyện Văn Lâm.
Hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh Hưng Yên có 104 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 11 phường và 93 xã.
| Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Hưng Yên | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
| |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Kinh tế
[sửa | sửa mã nguồn]Hưng Yên là tỉnh thuộc Tam giác kinh tế trọng điểm Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Cùng với sự phát triển kinh tế của cả nước, nền kinh tế Hưng Yên đang đổi thay từng ngày và được đánh giá là một trong những tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối nhanh và cao.
Công nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Hưng Yên là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đang dần chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công nghiệp và xây dựng có bước phát triển khá, tuy còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng tỉnh vẫn đạt được những thành tích đáng khích lệ. Một số ngành hàng tiếp tục được củng cố phát triển, lựa chọn các mặt hàng ưu tiên và có lợi thế để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, tạo ra những sản phẩm chất lượng cao. Các sản phẩm công nghiệp chính của tỉnh là dệt may, giày dép, thép xây dựng, ô tô, xe máy, điện tử, điện dân dụng, công nghiệp thực phẩm, cơ khí chính xác, công nghiệp hỗ trợ...

Nhờ vị trí địa lý và hạ tầng giao thông thuận lợi, Hưng Yên là một trong những địa phương có hệ thống khu công nghiệp (KCN) phát triển năng động ở vùng đồng bằng sông Hồng, giữ vai trò quan trọng trong thu hút đầu tư và thúc đẩy phát triển kinh tế. Năm 2022, doanh thu từ các dự án trong KCN ước đạt 5,5 tỷ USD, giá trị xuất khẩu khoảng 3,1 tỷ USD.[21]
Theo Quyết định 489/2024 của Thủ tướng Chính phủ, tỉnh có kế hoạch phát triển 35 KCN với quy mô hơn 12.000 ha, trong đó 12 khu đã được xây dựng với tổng diện tích khoảng 3.123 ha, 10 KCN đã hoàn thiện hạ tầng hiện đại, đồng bộ và đi vào hoạt động, sẵn sàng tiếp nhận dự án thứ cấp, khoảng 2.500 ha đất công nghiệp sẵn sàng cho thuê.[22]

Tính đến đầu năm 2025, các KCN đã đi vào hoạt động trên địa bản tỉnh Hưng Yên[23] như:
- Thăng Long II (525,7 ha)
- Phố Nối A (668,9 ha)
- Dệt may Phố Nối (Phố Nối B) (121,8 ha)
- Yên Mỹ (280 ha)
- Yên Mỹ II (313,5 ha)
- Minh Đức (198 ha)
- Minh Quang (150 ha)
- Sạch (143 ha)
- KCN số 03 (159,7 ha)
- KCN số 05 (192,6 ha)
Ngoài ra, còn có nhiều KCN đang trong quá trình triển khai, chưa đi vào hoạt động như: KCN Lý Thường Kiệt, Kim Động, Tân Dân, KCN số 01, KCN số 06, Thổ Hoàng, Tân Á Đại Thành...[21]
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế trên bản đồ kinh tế toàn cầu, Hưng Yên nổi lên như một điểm sáng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài (FDI). Nhờ vị trí chiến lược, hạ tầng đồng bộ và chính sách thu hút đầu tư linh hoạt, tỉnh đang đón nhận làn sóng đầu tư FDI mạnh mẽ, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển bền vững. Tính đến cuối năm 2024, Hưng Yên đã đăng ký 613 dự án FDI với tổng vốn đạt gần 8,5 tỷ USD, trong đó Nhật Bản đóng góp lớn nhất (~ 3,8 tỷ USD), Hàn Quốc (~ 1,4 tỷ USD) và Trung Quốc (~ 1,3 tỷ USD).[24] Các dự án tập trung vào các ngành công nghiệp chủ lực như: cơ khí, luyện kim, sản xuất ô tô - xe máy, linh kiện điện tử...
Với định hướng xây dựng hệ thống hạ tầng giao thông đồng bộ và hiện đại, nhằm thúc đẩy lưu thông hàng hóa và thu hút nguồn lực đầu tư, Hưng Yên đang từng bước khẳng định vị thế là một trong những trung tâm công nghiệp quan trọng của khu vực Bắc Bộ.
Nông nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]
Nông nghiệp của tỉnh Hưng Yên đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, mặc dù tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế chỉ chiếm khoảng 6 - 7%. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đất đai màu mỡ, hệ thống sông ngòi dày đặc, Hưng Yên phát triển nền nông nghiệp đa dạng và hiệu quả, nổi bật với các vùng chuyên canh trồng lúa, rau, cây ăn quả (nhãn, vải, chuối, ổi, cam, bưởi...) hay cây cảnh (hoa, quất, cam, bưởi...). Đặc biệt, nhãn lồng Hưng Yên từ lâu đã trở thành món đặc sản, là sản vật "tiến vua" có thương hiệu nổi tiếng cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài.

Về cây trồng, diện tích gieo cấy lúa là 48.976 ha với năng suất trung bình đạt hơn 59,3 tạ/ha, mặc dù giảm so với kế hoạch (94,2%) và thấp hơn năm 2023.[25] Đáng chú ý, tổng diện tích cây ăn quả đạt 15.381 ha, bao gồm nhãn (5.000 ha, sản lượng 40 - 45 nghìn tấn), vải (1.300 ha, 17 nghìn tấn), chuối (2.500 ha, 50 - 70 nghìn tấn) và cam, bưởi với sản lượng từ 27 nghìn tấn trở lên.[26]
Về chăn nuôi gia súc, gia cầm của tỉnh cũng phát triển mạnh, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân. Với đàn lợn đạt khoảng 520.000 con, gia cầm 9,4 triệu con, trâu bò 36.000 con; toàn tỉnh đạt sản lượng thịt hơi hơn 157,7 nghìn tấn và trứng trên 483 triệu quả.[26]
Trong thủy sản, diện tích nuôi trồng khoảng 5.200 - 5.750 ha, với sản lượng đạt hơn 50 - 55 nghìn tấn; đến cuối năm 2024, quy mô nuôi chuyển từ hộ cá nhân sang mô hình hợp tác, ứng dụng kỹ thuật nuôi lồng bè, ao bán nổi nhằm nâng cao hiệu quả.[27]
Trong những năm gần đây, ngành nông nghiệp tỉnh đã đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển theo hướng “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP) và sản xuất theo chuỗi giá trị VietGAP, với hơn 3.100 ha rau củ quả áp dụng VietGAP, 198 mô hình cánh đồng lớn gần 3.500 ha, và chuyển đổi hơn 1.200 ha đất trồng kém hiệu quả sang cây lâu năm giá trị cao, từng bước nâng cao giá trị sản xuất và xây dựng thương hiệu cho nông sản địa phương.[27] Tuy nhiên, tỷ lệ sản phẩm đạt chuẩn VietGAP chỉ chiếm khoảng 30 - 40% sản lượng và còn hạn chế trong khâu chế biến, liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân.[26]
Năm 2024, ngành nông nghiệp và thủy sản của Hưng Yên đạt giá trị sản xuất khoảng 14.053 tỷ đồng, giảm 1,55% so với năm 2023 - trong đó nông nghiệp đạt 12.237 tỷ đồng (giảm 1,6%) và thủy sản đạt 1.571 tỷ đồng (giảm 0,8%).[25] Dù gặp bất lợi do thiên tai như bão gây ngập úng gần 19.000 ha cây trồng và nhiều lồng bè, các biện pháp kỹ thuật và hỗ trợ đã giúp tỉnh Hưng Yên phục hồi sản xuất ổn định.
Thương mại và dịch vụ
[sửa | sửa mã nguồn]

Để định hướng phát triển hệ thống hạ tầng thương mại theo quy hoạch, Hưng Yên đã thu hút, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng các trung tâm thương mại (TTTM), siêu thị, khách sạn, chợ đầu mối nông sản ở các địa phương trong tỉnh. Nổi bật trong số đó là các dự án TTTM Vincom Mega Mall Ocean City, TTTM GO! Hưng Yên, TTTM Như Quỳnh Center, TTTM kết hợp chợ truyền thống Tiên Lữ, Khách sạn Melia Grand, Trung tâm hội nghị Lam Sơn, Chợ đầu mối nông sản sông Hồng...
Trong 6 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng toàn tỉnh đạt trên 51,7 nghìn tỷ đồng. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt trên 16,5 nghìn tỷ đồng; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt trên 1,4 nghìn tỷ đồng; doanh thu dịch vụ du lịch và lữ hành đạt 34 tỷ đồng; còn lại là doanh thu các ngành dịch vụ khác. Kim ngạch xuất khẩu đạt 3.250 triệu USD.[28]
Về thương mại điện tử (TMÐT) và kinh tế số, năm 2024, chỉ số TMĐT (EBI) của tỉnh Hưng Yên vượt lên đứng thứ 10/58, tăng 2 bậc so với năm 2023. Các hoạt động xúc tiến thương mại của tỉnh cũng được sở kết hợp ứng dụng TMÐT nhằm quảng bá nông sản đặc trưng của tỉnh đến gần hơn với khách hàng. Tỉ lệ dân số trong tỉnh tham gia mua sắm trực tuyến đạt 55%; tỉ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong TMÐT đạt 55%; tỉ lệ giao dịch mua hàng trên website hoặc ứng dụng TMÐT có hóa đơn điện tử đạt 70%; tỉ lệ xã và các đơn vị hành chính tương đương có thương nhân thực hiện hoạt động bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ trực tuyến đạt 90%.[29]
Tăng trưởng
[sửa | sửa mã nguồn]
Giai đoạn 2010 - 2020, tốc độ tăng trưởng quy mô tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) trung bình hàng năm của Hưng Yên duy trì ở mức cao, trên 8,25%.[30] Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19 trong các năm 2020 và 2021, song tăng trưởng kinh tế của tỉnh vẫn đạt ở mức khá so với các tỉnh, thành phố trong cả nước, lần lượt tăng 5,97% và 6,01%. Bước sang năm 2022, kinh tế của Hưng Yên phục hồi mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 13,4% (đứng thứ 5 toàn quốc) với GRDP đạt 132.176 tỉ đồng, GRDP bình quân đầu người đạt 102,3 triệu đồng/người, tương ứng với khoảng 4.396 USD (xếp thứ 12 cả nước và thứ 6 khu vực Bắc Bộ).[31]
Năm 2024, kinh tế tỉnh Hưng Yên tiếp tục đà phát triển vững mạnh bất chấp những khó khăn từ thiên tai như siêu bão Yagi và mưa lũ: GRDP tăng 7,7% so với năm trước, cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp, trong đó: công nghiệp - xây dựng chiếm khoảng 62,66%; nông - lâm - thủy sản đạt 6,72%; thương mại - dịch vụ 24,85% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm là 5,77%. Bình quân GRDP đầu người đạt 121,27 triệu đồng (tăng gần 8,8 triệu đồng so với năm 2023). Tổng vốn đầu tư phát triển đạt 75.200 tỷ đồng, tăng 10,03%. Thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 40.477 tỷ đồng, tăng 24,8% so với năm 2023 và đạt 123,32% kế hoạch năm, trong đó nội địa 35.811 tỷ và xuất - nhập khẩu 4.666 tỷ đồng, vượt 23 - 26% so với kế hoạch. Quy mô nền kinh tế của tỉnh đạt 159.844 tỷ đồng, là một trong những tỉnh có mật độ kinh tế cao của vùng và của cả nước, đạt 172 tỷ đồng/km².[32]
Đây là những minh chứng rõ ràng cho thấy Hưng Yên không chỉ giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô mà còn tăng trưởng nhanh về quy mô, năng suất lao động, nguồn thu ngân sách và đổi mới môi trường đầu tư.
Xã hội
[sửa | sửa mã nguồn]Sau 10 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM), đến năm 2020, tỉnh Hưng Yên đã trở thành một trong ba địa phương đầu tiên trên cả nước được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM. Trước đó, vào năm 2019, toàn bộ 100% số xã trong tỉnh đã đạt chuẩn NTM.[33]
Dân cư
[sửa | sửa mã nguồn]
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2022, tỉnh Hưng Yên có diện tích là 930,20 km², dân số đạt 1.290.800 người, mật độ dân số cao 1388 người/km². Trong đó, dân số khu vực thành thị là 217.400 người (16,84%), còn lại khoảng 1.073.400 người sống ở nông thôn (83,16%). Dân số nam là 648.200 người, dân số nữ là 642.600 người.[34]
Về cơ cấu dân số, đồng bào Kinh chiếm áp đảo với tỷ lệ lên tới 99,15%, phần nhỏ còn lại gồm một số dân tộc thiểu số như Tày, Thái, Mường... (mỗi nhóm dưới 0,3%). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên và di cư giữ ở mức ổn định, tăng trưởng dân số bình quân ~ 0,98%, với tỷ số giới tính khoảng 100,9 nam trên 100 nữ.[34] Về lao động, tỉnh có hơn 51% dân số trong độ tuổi lao động, trong đó khoảng 57.000 lao động trẻ, có trình độ cao, và khoảng 25% người lao động được đào tạo, qua đó cung cấp nguồn nhân lực cho khu công nghiệp và dịch vụ địa phương.
Hành chính
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh Hưng Yên chia thành 104 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 11 phường và 93 xã.[35]
| Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Hưng Yên[36] | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
|
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Tôn giáo
[sửa | sửa mã nguồn]
Phần lớn dân số của tỉnh Hưng Yên không theo tôn giáo nào, số đông theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hoặc tín ngưỡng dân gian ở địa phương. Tính đến năm 2022, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện có 3 tôn giáo hoạt động hợp pháp là Phật giáo, Công giáo và Tin lành.

- Phật giáo có 618 ngôi chùa và cơ sở thờ tự, 388 chức sắc, 39 thành viên trong Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh, với khoảng 21.000 Phật tử.[37]
- Công giáo có 80 nhà thờ và nhà nguyện, 26 giáo xứ với 24 linh mục chính xứ và quản xứ, 36 nữ tu và khoảng trên 20.000 giáo dân thuộc quản lý của 4 Tòa Giám mục (Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Phòng, Hà Nội).[37]
- Tin lành có 17 điểm nhóm, trong đó có 8 điểm nhóm thuộc 4 tổ chức Tin lành đã được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động tôn giáo, có 1 mục sư, 1 mục sư nhiệm chức, 4 truyền đạo và trên 200 tín hữu; các điểm nhóm hoạt động tại gia, chưa có cơ sở thờ tự.[37]
Nhìn chung, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn tỉnh Hưng Yên diễn ra ổn định và đúng định hướng. Các sinh hoạt, lễ nghi được tổ chức trang nghiêm, đúng quy định của pháp luật cũng như điều lệ của tổ chức tôn giáo, thu hút đông đảo tín đồ và người dân tham gia, góp phần gìn giữ giá trị văn hóa tinh thần.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, vẫn còn một số vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt là sự xuất hiện của một số hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới hay "đạo lạ" hoạt động chưa được cấp phép, tiềm ẩn nguy cơ gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự và sự ổn định trong cộng đồng dân cư.
Giáo dục
[sửa | sửa mã nguồn]Tính đến năm 2024, toàn tỉnh có 486 trường ở các cấp học, trong đó 398 trường đạt chuẩn quốc gia (~ 82%) và 78 trường kiểm định chất lượng giáo dục. Với nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia. Năm 2024, tỉnh có 60/90 thí sinh dự thi đạt giải trong kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia, tỉ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT của tỉnh Hưng Yên là 99,53%.[38] Công tác phổ cập giáo dục, xây dựng trường học thông minh và số hóa giáo dục với hệ thống trường, lớp học được đầu tư tương đối đồng bộ, hiện đại, đáp ứng cơ bản nhu cầu giảng dạy và học tập, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho địa phương và đất nước.
Về giáo dục bậc đại học và cao đẳng, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện có một số trường và cơ sở đào tạo tiêu biểu như:

- Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên
- Đại học Bách khoa Hà Nội (cơ sở Hưng Yên)
- Trường Đại học Thủy lợi (cơ sở Hưng Yên)
- Trường Đại học Mở Hà Nội (cơ sở Hưng Yên)
- Trường Đại học Công đoàn (cơ sở Hưng Yên)
- Trường Đại học Y Dược Thái Bình
- Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh
- Trường Đại học Anh Quốc Việt Nam
- Trường Đại học Y khoa Tokyo Việt Nam
- Trường Đại học Thái Bình
- Trường Đại học Intracom
- Trường Cao đẳng Cơ điện Hà Nội (cơ sở Hưng Yên)
- Trường Cao đẳng Công nghiệp Hưng Yên
- Trường Cao đẳng Sư phạm Thái Bình
- Trường Cao đẳng Y - Dược ASEAN
- Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Thái Bình
- Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình
- Trường Cao đẳng Cơ điện và Thủy Lợi
- Trường Cao đẳng Y tế Hưng Yên
- Trường Cao đẳng Cộng đồng Hưng Yên
- Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Tô Hiệu
- Trường Bồi dưỡng cán bộ Kinh tế - Tài chính
Ngoài ra, còn có hơn 10 trường đại học đã được quy hoạch xây dựng trong đề án Khu đô thị Đại học Phố Hiến nằm ở thành phố Hưng Yên và huyện Tiên Lữ, nhưng dự án hiện đã kết thúc việc triển khai.[39]
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên là một trong những đội tuyển Robocon của Việt Nam thường xuyên góp mặt trong trận chung kết và đạt thành tích cao tại các cuộc thi trong nước và quốc tế. Đây là một sân chơi truyền thống, nơi sinh viên thể hiện kỹ năng lập trình, chế tạo, cơ khí và áp dụng trí tuệ nhân tạo vào robot. Đặc biệt, năm 2015, đội tuyển của trường đã giành chức vô địch Robocon Việt Nam (lần đầu, lần thứ 2 vào năm 2024) để giành vé đại diện cho Việt Nam tham dự vòng chung kết Robocon Châu Á - Thái Bình Dương (ABU) năm 2015 tại Indonesia, nơi họ trở thành quán quân để mang chức vô địch lần thứ 5 về cho Việt Nam.[40]
Y tế
[sửa | sửa mã nguồn]Đến năm 2025, toàn tỉnh có 4 bệnh viện đa khoa, 14 bệnh viện chuyên khoa công lập cấp tỉnh trực thuộc Sở Y tế Hưng Yên[41]:
- Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hưng Yên
- Bệnh viện Đa khoa Thái Bình
- Bệnh viện Đa khoa Phố Nối
- Bệnh viện Đa khoa Hưng Hà Thái Bình
- Bệnh viện Y dược cổ truyền tỉnh Hưng Yên
- Bệnh viện Y dược cổ truyền Thái Bình
- Bệnh viện Sức khỏe tâm thần tỉnh Hưng Yên
- Bệnh viện Sức khỏe tâm thần Thái Bình
- Bệnh viện Phổi tỉnh Hưng Yên
- Bệnh viện Phổi Thái Bình
- Bệnh viện Mắt tỉnh Hưng Yên
- Bệnh viện Mắt Thái Bình
- Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh Hưng Yên
- Bệnh viện Phụ sản Thái Bình
- Bệnh viện Nhi Thái Bình
- Bệnh viện Da liễu
- Bệnh viện Bệnh nhiệt đới
- Bệnh viện Phục hồi chức năng
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh Hưng Yên còn có một số bệnh viện thuộc tư nhân và các trường đại học, cao đẳng y tế như: Bệnh viện Đa khoa Hưng Hà, Bệnh viện Trường Đại học Y Thái Bình, Bệnh viện Đa khoa Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình...
Ở các tuyến thấp hơn, tỉnh có 10 trung tâm y tế cấp huyện và 155 trạm y tế xã, phường, thị trấn[41]. Tính đến hết năm 2023, 100% xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân; tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt gần 94%; tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 5 tuổi đạt dưới 19,4%; tuổi thọ trung bình đạt 75,50 tuổi; tổng tỷ suất sinh đạt 2,3 con/1 phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, duy trì mức sinh thay thế; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,63%; tỷ lệ khám sức khỏe định kỳ cho người cao tuổi đạt 85%.[41]
Năm 2024, UBND tỉnh Hưng Yên cũng đã ký kết hợp tác chuyển giao kỹ thuật chuyên sâu và hỗ trợ y tế với Bệnh viện Bạch Mai; trong đó trọng tâm chuyển giao chuyên môn, kỹ thuật y học thực hành, bao gồm các lĩnh vực: Tim mạch; Tiết niệu và Lọc máu; Hồi sức cấp cứu, Xét nghiệm, Chống độc; Thần kinh, Cơ - xương khớp; Nội tiết, Tiêu hóa, Hô hấp, Dị ứng miễn dịch lâm sàng, Huyết học - Truyền máu, Phục hồi chức năng, Tâm thần, Ngoại khoa, Nhi khoa, Sản khoa, Dinh dưỡng, Truyền nhiễm, Chẩn đoán hình ảnh... Bệnh viện cam kết hỗ trợ ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và marketing; hỗ trợ, tư vấn dịch vụ y tế kỹ thuật cao; tư vấn, hỗ trợ thành lập và triển khai các dịch vụ y tế chất lượng cao tại các đơn vị y tế tỉnh Hưng Yên.[41]
Tuy vậy, ngành y tế của tỉnh vẫn phải đối mặt với một số vấn đề và hạn chế như tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn cao; đầu tư khoa học kỹ thuật và quản lý nhân lực tại tuyến cơ sở chưa tương xứng; công tác chuyển đổi số còn chưa đồng bộ; thiếu nguồn nhân lực đội ngũ bác sĩ chuyên sâu thuộc các chuyên ngành; thiếu vật tư y tế trong khám, điều trị. Để khắc phục những vấn đề này, tỉnh Hưng Yên cần tiếp tục nâng cao công tác chỉ đạo - điều hành; nâng cao chất lượng khám - chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân; nâng cao nhận thức về bình đẳng giới, dân số - kế hoạch hóa gia đình và chăm sóc sức khỏe sinh sản; đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực; tiếp tục củng cố và hoàn thiện tổ chức mạng lưới y tế các tuyến; đầu tư nâng cao năng lực hệ thống y tế, ưu tiên phát triển mạng lưới y tế cơ sở...
Danh nhân
[sửa | sửa mã nguồn]
Hưng Yên là vùng đất địa linh nhân kiệt, sản sinh ra nhiều danh nhân hào kiệt trong suốt chiều dài lịch sử. Thời phong kiến, nơi đây còn là vùng đất khoa bảng với 8 trạng nguyên trong tổng số 53 trạng nguyên cả nước; 205 tiến sỹ được ghi danh trên bia Văn miếu Quốc Tử Giám; 228 người thi đỗ đại khoa được ghi danh ở Văn miếu Xích Đằng.[42]
Các danh nhân tiêu biểu nhất của tỉnh Hưng Yên bao gồm: Triệu Việt Vương, Ỷ Lan, các vị vua nhà Trần, Trần Thủ Độ, Nguyễn Khoái, Phạm Ngũ Lão, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Công Hoan, Tô Ngọc Vân, Tô Hiệu, Vũ Trọng Phụng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Hoàng Văn Thái, Hoàng Minh Thảo, Nguyễn Quyết.

Trong đó, đại danh y Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác) và nhà bác học Lê Quý Đôn đã được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới.[43][44]
Ngoài ra, các danh nhân tiêu biểu khác của tỉnh có thể kể đến như: Triệu Túc, Trần Lãm, Phạm Thị Trân, Lã Đường, Trần Ứng Long, Đỗ Thế Diên, Nguyễn Trung Ngạn, Đào Công Soạn, Đào Nương, Hoàng Đức Lương, Đỗ Nhân, Dương Phúc Tư, Lê Như Hổ, Phạm Công Trứ, Nhu Thuận hoàng hậu, Hoàng Công Chất, Đoàn Nguyễn Thục, Doãn Uẩn, Doãn Khuê, Phan Bá Vành, Phạm Thế Hiển, Nguyễn Mậu Kiến, Nguyễn Quang Bích, Bùi Viện, Tạ Hiện, Nguyễn Thiện Kế, Chu Mạnh Trinh, Kỳ Đồng, Dương Bá Trạc, Nguyễn Công Tiễu, Dương Quảng Hàm, Trần Cung, Dương Tụ Quán, Nguyễn Lân, Phó Đức Chính, Bồ Xuân Luật, Đoàn Văn Minh,[45] Nguyễn Bình, Nguyễn Đức Cảnh, Tạ Mỹ Duật,[46] Quách Thị Hồ, Học Phi, Lê Giản, Vũ Văn Cẩn, Mai Văn Chung, Lê Quang Hòa, Phạm Huy Thông, Phạm Ngọc Mậu, Nguyễn Khang, Ngô Huy Quỳnh, Trần Vỹ, Dương Bích Liên, Tạ Quốc Luật,[47] Đỗ Chính, Nguyễn Trọng Xuyên, Nguyễn Tài, Hoàng Quy, Lê Đức Thịnh, Trần Phương, Đặng Vũ Hiệp, Vũ Ngọc Nhạ, Đào Đình Luyện, Tô Quyền, Bùi Thị Cúc, Nguyễn Thị Chiên, Nguyễn Vĩnh Bảo,[48] Trần Đình Hoan, Dương Thị Xuân Quý, Bùi Quang Thận, Hoàng Dũng...
Văn hóa và du lịch
[sửa | sửa mã nguồn]Lễ hội
[sửa | sửa mã nguồn]
- Lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung, còn gọi là Lễ hội Đền Đa Hòa - Dạ Trạch, là một trong 16 lễ hội lớn nhất cả nước và đã được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2023.[49] Lễ hội được tổ chức 3 năm một lần vào các ngày 10 đến 12 tháng Hai âm lịch tại hai địa điểm chính: Đền Đa Hòa (xã Bình Minh) và Đền Dạ Trạch (xã Dạ Trạch), thuộc huyện Khoái Châu. Sự kiện nhằm tôn vinh công lao của đức thánh Chử Đồng Tử - một trong tứ bất tử của tín ngưỡng Việt Nam và nhị vị phu nhân - công chúa Tiên Dung (con gái Hùng Vương thứ XVIII) và công chúa Tây Sa; đã có công giúp dân làng khai phá đất đai, mở mang nghề nghiệp, chữa bệnh cứu người. Bên cạnh đó, lễ hội không chỉ ca ngợi tình yêu vĩnh cửu, thiêng liêng, vượt lên trên mọi hoàn cảnh mà còn đề cao những giá trị nhân văn sâu sắc như lòng hiếu thảo, đức độ, sự khoan dung và nhân ái trong cuộc sống.
- Lễ hội Văn hóa dân gian Phố Hiến, là một trong những sự kiện văn hoá lớn và lâu đời của tỉnh Hưng Yên, tổ chức hằng năm vào tháng Giêng âm lịch tại không gian di tích đặc biệt Phố Hiến như Văn miếu Xích Đằng, Đền Mẫu, Đền Trần, Đền Thiên Hậu, Chùa Chuông... với sự tham gia của 17 xã, phường thuộc thành phố Hưng Yên.[50] Lễ hội nhằm giới thiệu và quảng bá các nét đẹp về văn hóa của đất và người Phố Hiến xưa. Đồng thời, góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của địa phương, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tín ngưỡng, tâm linh, tham quan các di tích lịch sử - văn hóa, công trình kiến trúc nghệ thuật của người dân.
- Lễ hội Đền An Xá, hay còn gọi là Lễ hội Đậu An, được diễn ra hàng năm từ mùng 1 đến ngày 12 tháng Tư âm lịch tại xã An Viên, huyện Tiên Lữ, là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, Ngũ Lão tiên ông và các vị Thiên tiên, Địa tiên - những vị thần được tín đồ Đạo Giáo tôn kính và gắn liền với công lao khai hóa, diệt trừ thú dữ và dạy dân cày cấy. Năm 2023, lễ hội được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.[51]
- Lễ hội Cầu mưa, còn gọi là Lễ hội Tứ Pháp, được tổ chức từ ngày 6 đến ngày 8 tháng Ba âm lịch hàng năm tại xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm. Đây là lễ hội truyền thống tiêu biểu gắn với tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp Điện) - những vị thần gắn liền với mưa gió, sấm chớp trong văn hóa nông nghiệp lúa nước. Được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2022, lễ hội thể hiện lòng thành kính, biết ơn các vị thần đã che chở, phù hộ dân làng, đồng thời khẳng định nguồn cội và bản sắc văn hóa của cộng đồng làng xã.[52] Thông qua các nghi lễ và hoạt động truyền thống, lễ hội truyền tải ước vọng về mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cuộc sống no ấm, đồng thời góp phần giáo dục thế hệ sau về đạo lý "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây".
- Lễ hội Đền Tống Trân, là lễ hội truyền thống tiêu biểu của xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, diễn ra hàng năm từ 8 đến ngày 16 tháng Tư âm lịch. Lễ hội nhằm tưởng niệm Lưỡng quốc Trạng nguyên Tống Trân - bậc hiền tài được tôn vinh với đức hiếu và lòng trung. Năm 2021, lễ hội đã chính thức được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, khẳng định giá trị truyền thống, văn hóa và lịch sử sâu sắc của lễ hội.[53]
- Lễ hội Đình Quan Xuyên, được diễn ra 3 năm một lần, vào ngày 11 - 13 tháng Hai âm lịch, tại xã Thành Công, huyện Khoái Châu. Lễ hội gắn liền với tín ngưỡng thờ Ngũ vị đẳng thần là: Đức thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân, Thành hoàng Vũ Quang Chiếu và Phạm Công Nghi. Đây là lễ hội phản ánh rõ nét tín ngưỡng đặc trưng của cư dân nông nghiệp lúa nước với nhiều nghi thức/trò chơi có liên quan đến nước và mặt trời - là những thành tố quan trọng liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Thông qua các nghi thức này, nhân dân muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, con người khỏe mạnh. Năm 2024, lễ hội chính thức được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.[54]

- Lễ hội Làng Nôm, được tổ chức hàng năm từ ngày 10 đến 12 tháng Giêng âm lịch tại làng Nôm, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm. Làng Nôm là một ngôi làng cổ tiêu biểu còn giữ được gần như nguyên vẹn kiến trúc truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ, với đình làng, chùa, cầu đá 9 nhịp, giếng cổ và hệ thống nhà thờ họ đặc trưng.[55] Lễ hội nhằm tưởng nhớ Đức Thánh Tam Giang - Thành hoàng làng, đồng thời là dịp thể hiện lòng biết ơn tổ tiên và khẳng định truyền thống đoàn kết, hiếu nghĩa, trọng đạo lý của cộng đồng cư dân. Lễ hội Làng Nôm không chỉ mang giá trị tín ngưỡng mà còn góp phần bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống và quảng bá hình ảnh quê hương đến với bạn bè trong và ngoài nước.
- Lễ hội Đền Phù Ủng, là một lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm từ ngày 11 đến ngày 13 tháng Giêng âm lịch tại xã Phù Ủng, huyện Ân Thi. Lễ hội nhằm tưởng niệm và tri ân công lao to lớn của danh tướng Phạm Ngũ Lão - vị tướng kiệt xuất dưới triều nhà Trần, người đã lập nhiều chiến công trong hai cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai và thứ ba. Không chỉ mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc, lễ hội còn góp phần giáo dục lòng yêu nước và tự hào dân tộc cho các thế hệ. Đền Phù Ủng - nơi diễn ra lễ hội đã được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia từ năm 1988.[56]

- Lễ hội Nam Trì, được tổ chức hằng năm từ ngày 8 đến 12 tháng Ba âm lịch tại xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi. Đây là một lễ hội tế thần truyền thống có nguồn gốc từ thế kỷ thứ II TCN, nhằm tôn vinh ba vị Thành hoàng làng: Bảo Công, Lang Công, Biền Công, những nhân vật lịch sử - huyền thoại có công diệt trừ ác, chữa bệnh cứu dân. Lễ hội không chỉ là dịp tri ân người có công mà còn là sự kiện văn hóa cộng đồng đậm chất lịch sử, phản ánh tín ngưỡng dân gian gắn liền với lòng hiếu nghĩa và tinh thần làng xã ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.
- Lễ hội Đền Trần, xã Long Hưng, đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2014.
- Lễ hội Chùa Keo, xã Vũ Tiên, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2017.
- Lễ hội Chùa Ông, xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, diễn ra từ ngày 6 đến 9 tháng Ba âm lịch hàng năm, đã được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2025.
- Lễ hội Bổng Điền, xã Tân Lập, huyện Vũ Thư, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2023.
- Lễ hội Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.
- Lễ hội đền A Sào, xã An Thái, huyện Quỳnh Phụ, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.
- Lễ hội Đền Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.
- Lễ hội Đền Lộng Khê, xã An Khê, huyện Quỳnh Phụ, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2017.
- Lễ hội Làng Quang Lang, xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.
- Lễ hội Làng Thượng Liệt, xã Đông Tân, huyện Đông Hưng, được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2018.
Di tích lịch sử - văn hóa
[sửa | sửa mã nguồn]
Tỉnh Hưng Yên là một vùng đất cổ giàu truyền thống văn hiến, nơi lưu giữ hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, đa dạng, mang dấu ấn văn hóa đặc sắc của vùng đồng bằng sông Hồng. Tính đến năm 2021, toàn tỉnh hiện có trên 1.802 di tích lịch sử - văn hóa, trong đó 172 di tích/cụm di tích xếp hạng quốc gia, 257 di tích/cụm di tích xếp hạng cấp tỉnh.[57] Đến năm 2025, tỉnh có 6 di tích - khu di tích cấp quốc gia đặc biệt, gồm:
- Khu di tích Phố Hiến, nằm tại thành phố Hưng Yên, được công nhận là di tích cấp quốc gia đặc biệt năm 2014, là nơi hội tụ văn hóa Đông - Tây với 16 công trình kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng tiêu biểu như: Văn miếu Xích Đằng, Chùa Chuông, Đền Mẫu, Đền Trần, Đền Mây, Đình - Chùa Hiến, Đền Thiên Hậu, Đền Kim Đằng...[50]
- Khu di tích Đền Đa Hòa - Dạ Trạch, thuộc xã Bình Minh và xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, được công nhận là di tích cấp quốc gia đặc biệt vào năm 2024.[58]
- Đền An Xá, hay còn gọi là Đền Đậu An, tọa lạc tại xã An Viên, huyện Tiên Lữ, là ngôi đền Đạo giáo cổ hiếm hoi với kiến trúc đá xanh độc đáo, được công nhận là di tích cấp quốc gia đặc biệt vào năm 2020.[51]
- Chùa Thái Lạc, thuộc xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, được xếp hạng là di tích cấp quốc gia đặc biệt vào năm 2018.[59]
- Chùa Keo, tọa lạc tại xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, đã được xếp hạng là di tích cấp quốc gia đặc biệt năm 2012.
- Khu di tích Đền thờ và Lăng mộ các vua Trần, thuộc xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, đã được xếp hạng là di tích cấp quốc gia đặc biệt vào năm 2015.

Trên địa bàn tỉnh Hưng Yên hiện lưu giữ tổng cộng 11 bảo vật quốc gia, gồm: Tháp đất nung Đền An Xá, Bệ thờ đất nung Đền An Xá, Tượng Phật Quan Âm thiên thủ thiên nhãn Chùa Mễ Sở, Bia "Đại Bi Diên Minh tự bi", Bia "Cổ Việt thôn Diên Phúc tự bi minh", Sưu tập đĩa vàng hoa sen Cộng Vũ, Bệ tượng sư tử đá Chùa Hương Lãng, Hệ thống thành bậc đá Chùa Hương Lãng, Hai cánh cửa chạm rồng Chùa Keo, Ngai thờ gỗ sơn son thếp vàng, Hương án Chùa Keo.[60]
Ngoài ra, hàng trăm di tích đã được công nhận cấp tỉnh, tạo nên một mạng lưới di tích phong phú và đa dạng. Các di tích của Hưng Yên bao gồm nhiều loại hình như: kiểu kiến trúc, nghệ thuật, đình - đền - chùa, miếu mạo, lăng mộ, nhà cổ, giếng làng... phản ánh đầy đủ các mặt đời sống vật chất và tinh thần của người Việt qua các thời kỳ.
Nghệ thuật
[sửa | sửa mã nguồn]Kiến trúc
[sửa | sửa mã nguồn]Kiến trúc trong đời sống, sinh hoạt cộng đồng cư dân mang đậm dấu ấn kiến trúc vùng đồng bằng Bắc Bộ qua từng thời kỳ. Một phần ảnh hưởng của kiến trúc Trung Hoa do thời kỳ Bắc thuộc kéo dài. Các di tích với không gian và đặc biệt là các chi tiết chạm khắc, đường nét, bố cục tinh tế khác nhau qua từng giai đoạn. Qua đó, từ các công trình kiến trúc còn giúp cho việc nghiên cứu niên đại, trùng tu, phục dựng, mô phỏng và cả văn hóa lịch sử của từng thời kỳ. Các ngôi đình mang đậm chất kiến trúc Phật giáo. Các ngôi chùa chủ yếu thiết kế theo bố cục chữ "Đinh", chữ "Công", số ít là kiểu "Nội công ngoại quốc". Các nhà thờ của 140 giáo xứ trong tỉnh lại có kiến trúc đặc sắc riêng. Các thiết kế đều theo quan niệm phải hợp phong thủy phương Đông.
Làng Nôm là một ngôi làng điển hình mang kiến trúc đặc trưng của ngôi làng người Việt tại đồng bằng Bắc Bộ.[61] Kiến trúc Hoa cũng được du nhập như chùa Nễ Châu, Đông Đô hội quán, chùa Phố, đền Thiên Hậu, đền Võ Miếu... Các thương điếm, thương quán tại Phố Hiến vào thế kỷ XVI, XVIII (đến thế kỷ XVIII đã bị phá hủy) lại mang kiến trúc phương Tây như Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha[62]... Trên địa bàn tỉnh hiện có 208 công trình, di tích, cụm di tích gồm các đình, chùa, đền, miếu, lăng và mộ đã được Bộ văn hóa thông tin sau là Bộ văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia về kiến trúc.
Hưng Yên là quê hương của nhiều thế hệ kiến trúc sư đầu tiên Việt Nam như Tạ Mỹ Duật, Đoàn Văn Minh,[63] Ngô Huy Quỳnh... đã thiết kế và xây dựng nhiều công trình quan trọng như Biệt thự 28 Hàng Chuối, Trường đại học thương nghiệp, Bảo tàng Hùng Vương tại khu di tích đền Hùng...[64]
Hội họa
[sửa | sửa mã nguồn]Nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, Hưng Yên là vùng đất lưu giữ, giao thoa và phát triển mạnh về văn hóa - nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Hội họa Hưng Yên đa dạng với nhiều chất liệu như sơn dầu, sơn mài, than chì, giấy, lụa... mang đường nét tinh tế, giàu sắc thái, phản ánh chiều sâu đời sống xã hội và góp phần tạo dựng giá trị văn hóa đặc trưng.
Hưng Yên là quê hương của nhiều họa sĩ và nghệ nhân nổi tiếng, góp phần tạo nên những dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển của nghệ thuật Việt Nam. Trong lĩnh vực hội họa, không thể không nhắc đến Tô Ngọc Vân với các bức tranh nổi bật như Thiếu nữ bên hoa sen, Thiếu nữ bên hoa huệ, Bộ đội nghỉ trong hang, Bác Hồ làm việc tại Bắc Bộ phủ... Trong đó, bức tranh sơn dầu Hai thiếu nữ và em bé được ông sáng tác năm 1944 đã được công nhận là bảo vật quốc gia vào năm 2013.[65] Họa sĩ Dương Bích Liên cũng để lại dấu ấn với các bức tranh như Mùa lúa chín, Nữ bác sĩ, Chiều vàng... Đặc biệt, bức tranh sơn mài Bác Hồ ở chiến khu Việt Bắc (1980) của ông đã được công nhận là bảo vật quốc gia vào năm 2017.[66]
Bên cạnh đó, Hưng Yên còn có các danh họa tiêu biểu khác như Lê Quốc Lộc, Trần Đình Thọ, Lương Xuân Nhị, Dương Hướng Minh...[67]
Văn học
[sửa | sửa mã nguồn]Hưng Yên là một trong những địa phương có truyền thống văn hiến lâu đời ở đồng bằng Bắc Bộ, gắn với các câu truyện cổ tích, truyền thuyết đến thần thoại về các vị thần và nhân vật lịch sử được thờ tại các di tích. Tiêu biểu như truyền thuyết Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân gắn với sự tích Đầm Nhất Dạ và Đền Hóa - Dạ Trạch - nơi hai người hóa về trời; truyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt kể về chàng Trương Ba người làng Liêu Hạ; chuyện Hương Thảo - cô gái làng Bích Tràng cắt cỏ nhanh đến mức châu chấu bay không kịp, sau theo phò tá Hai Bà Trưng đánh giặc; chuyện tượng đất hóa tượng vàng ở làng Xuân Dục; sự tích Bà Chúa Vực; chuyện Ngọc Hoàng Thượng đế giáng trần ở Đền Đậu An; hay truyện Tống Trân Cúc Hoa về trạng nguyên Tống Trân người làng An Cầu.[68][69] Bên cạnh đó, còn có nhiều câu chuyện về các vị thánh, mẫu, quan, cùng những nhân vật lịch sử được dân gian nhân hóa, tôn thờ tại các di tích trên địa bàn tỉnh, góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa tâm linh, tín ngưỡng đặc sắc của Hưng Yên.

Hưng Yên còn là vùng đất sản sinh ra nhiều danh sĩ, nhà văn và nhà thơ tiêu biểu qua các thời kỳ. Từ thời phong kiến, Hưng Yên đã xuất hiện những tên tuổi có ảnh hưởng về văn học như danh tướng Phạm Ngũ Lão - người không chỉ có tài về quân sự mà còn về thơ văn với tác phẩm tiêu biểu Thuật hoài; Nguyễn Trung Ngạn - một đại thần nhà Trần với nghệ thuật thơ giàu nhạc điệu, lời lẽ thanh tao, điêu luyện.
Đến thế kỷ XVIII, mảnh đất này ghi dấu kiệt tác Chinh phụ ngâm với bản dịch chữ Nôm của Hồng Hà nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Bà được đánh giá bậc nhất về sắc đẹp lẫn tài năng trong những nữ sĩ danh tiếng nhất. Ngoài ra, không thể không kể đến những đóng góp về văn thơ của Hải Thượng Lãn Ông và Lê Quý Đôn với nhiều tác phẩm có giá trị trong giai đoạn này.
Bước sang thế kỷ XIX và XX, Hưng Yên tiếp tục đóng góp những nhà văn, nhà thơ danh tiếng như Chu Mạnh Trinh với phong cách thơ lãng mạn, giàu tình yêu thiên nhiên, đất nước; Nguyễn Công Hoan - chủ tịch đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam, là cây bút xuất sắc với dòng văn phản ánh hiện thực xã hội; và bậc thầy trào phúng, "ông vua phóng sự đất Bắc" - Vũ Trọng Phụng với nhiều tác phẩm tiểu biểu như Số đỏ, Làm đĩ, Giông tố... Bên cạnh đó, Dương Quảng Hàm - một học giả, nhà nghiên cứu đã có những đóng góp quan trọng cho nền giáo dục và văn học Việt Nam, nổi bật với công trình Việt Nam văn học sử yếu.
Đời sống văn hóa, tinh thần cũng như lịch sử của vùng đất Hưng Yên còn được thể hiện qua các câu ca dao, tục ngữ và ngạn ngữ như:
| “ | ” |
| “ | Đố ai quên được nhãn lồng Hưng Yên |
” |
| “ | Thia lia quen chậu, vợ chồng quen hơi |
” |
| “ | ” |
Hát chèo
[sửa | sửa mã nguồn]Hưng Yên được xem là nơi phát tích và là "cái nôi" của nghệ thuật hát chèo.[70] Nhiều nghệ nhân được coi là tổ nghề hát chèo như Phạm Thị Trân, Đào Văn Só, Sái Ất, Đào Thị Huệ; về sau có Nguyễn Đình Nghị - người mở đầu cho chèo cách tân. Hát chèo ở Hưng Yên đã lan tỏa rộng rãi tới nhiều vùng, đặc biệt là khu vực trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Trên địa bàn tỉnh hiện còn nhiều làng và câu lạc bộ chèo tiêu biểu như: Làng Khuốc, Hà Xá, Đông Kết, Thanh Long, Thụy Lôi, Hùng An, Đoan Khê... Nghệ thuật hát chèo ở Hưng Yên đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2023.[71]
Hát trống quân
[sửa | sửa mã nguồn]Hát trống quân là một loại hình nghệ thuật phát triển ở Hưng Yên với nhiều câu lạc bộ tại nhiều thôn xã như: Vĩnh Khúc, Tân Tiến, Đồng Chung, Tiên Kiều, Kênh Cầu... Trong đó, loại hình này phát triển mạnh nhất ở cộng đồng dân cư xã Dạ Trạch (cũ), như các thôn Đức Nhuận, Yên Vĩnh và Đền Hoá Dạ Trạch. Nghệ thuật hát trống quân Hưng Yên đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2016.[72]
Ca trù
[sửa | sửa mã nguồn]Loại hình nghệ thuật hát ca trù ở Việt Nam đã được ghi danh là di sản văn hóa nhân loại của 16 tỉnh, thành trong đó có cả hai tỉnh là Hưng Yên (cũ) và Thái Bình. Các địa phương phát triển nghệ thuật ca trù như Giáo Phòng, Bình Minh, Lại Ốc, Bình Định, Đào Đặng... Tương truyền, tổ nghề hát ca trù là bà Đào Thị Huệ - người làng Đào Đặng, có công giết giặc Minh.[73] Bên cạnh đó, loại hình nghệ thuật này còn có một danh ca ca trù ưu tú là Quách Thị Hồ. Bà được xem như là một bậc thầy về ca trù, đã có công lan tỏa rộng rãi tiếng hát đến công chúng và cả ngoài nước, góp phần giữ gìn và phát huy giá trị của loại hình nghệ thuật này.[74]
Múa rối nước
[sửa | sửa mã nguồn]Nghệ thuật múa rối nước tại Hưng Yên phát triển gắn liền trong sinh hoạt, vui chơi và lễ hội. Phường rối nước làng Nguyên Xá (Thái Bình cũ) là một trong những "cái nôi" của nghệ thuật múa rối nước Việt Nam hiện vẫn còn được duy trì. Ngoài ra, còn có nhiều phường rối nước khác có thể kể đến như Đông Các, Lại Ốc... Vào năm 2018, nghệ thuật múa rối nước làng Nguyên Xá và Đông Các đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.[75]
Làng nghề truyền thống
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh Hưng Yên là vùng đất được biết đến không chỉ bởi bề dày lịch sử - văn hóa mà còn bởi hệ thống làng nghề truyền thống đa dạng và lâu đời, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Toàn tỉnh hiện nay có rất nhiều làng nghề truyền thống đã được UBND tỉnh công nhận. Mỗi làng nghề mang một đặc trưng riêng gắn với điều kiện tự nhiên, tập quán và lịch sử địa phương. Một số làng nghề đại diện có thể kể đến như:


- Làng nghề tương Bần Yên Nhân (phường Bần Yên Nhân, thị xã Mỹ Hào)
- Làng nghề hoa, cây cảnh Văn Giang (xã Xuân Quan, xã Phụng Công, huyện Văn Giang)
- Làng nghề đan đó Thủ Sỹ (xã Thủ Sỹ, huyện Tiên Lữ)
- Làng nghề hương xạ Cao Thôn (xã Bảo Khê, thành phố Hưng Yên)
- Làng nghề đúc đồng Lộng Thượng (xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm)
- Làng nghề chạm bạc Huệ Lai (xã Phù Ủng, huyện Ân Thi)
- Làng nghề muối Thụy Hải (xã Thụy Hải, huyện Thái Thụy)
- Làng nghề dệt chiếu Hới (xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà)
- Làng nghề quất cảnh Khoái Châu (xã Đông Tảo, xã Bình Minh, huyện Khoái Châu)
- Làng nghề long nhãn Hồng Nam (phường Hồng Nam, thành phố Hưng Yên)
- Làng nghề dược liệu Nghĩa Trai (xã Tân Quang, huyện Văn Lâm)
- Làng nghề dệt vải, khăn Phương La (xã Thái Phương, huyện Hưng Hà)
- Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm (xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương)
- Làng nghề mộc mỹ nghệ Hòa Phong (xã Hòa Phong, thị xã Mỹ Hào)
- Làng nghề dệt đũi Nam Cao (xã Thống Nhất, huyện Kiến Xương)
- Làng nghề đồ chơi Trung thu Ông Hảo (xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ)
- Làng nghề rèn, cơ khí Vân Ngoại (xã Đồng Tiến, huyện Khoái Châu)
- Làng nghề thêu Minh Lãng (xã Minh Lãng, huyện Vũ Thư)
Không chỉ có giá trị về kinh tế, các làng nghề truyền thống ở Hưng Yên còn là kho tàng sống động của tri thức dân gian, kỹ thuật thủ công tinh xảo và đời sống văn hóa làng xã đặc trưng vùng Bắc Bộ, tạo nền tảng để phát triển du lịch trải nghiệm và gìn giữ giá trị văn hóa trên quê hương nhãn lồng.
Ẩm thực
[sửa | sửa mã nguồn]
Ẩm thực của tỉnh Hưng Yên mang đậm hương vị đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ với nhiều món đặc sản hấp dẫn từ bình dị, dân dã cho đến những món ngon công phu để "tiến vua".
Nổi bật nhất trong ẩm thực Hưng Yên là đặc sản nhãn lồng - loại trái cây xưa dùng để "tiến vua". Nhãn lồng nổi tiếng với vị ngọt thơm, cùi dày, mềm, hạt nhỏ và có thể được chế biến thành nhiều món ăn như long nhãn sấy, chè hạt sen long nhãn, long nhãn hầm hạt sen, rượu long nhãn... không chỉ thơm ngon mà còn bổ dưỡng. Từ nhãn, người dân còn phát triển nghề làm mật ong hoa nhãn và long nhãn xuất khẩu mang thương hiệu quốc gia.
Hưng Yên còn được biết đến với tương Bần - loại tương truyền thống lên men từ đỗ tương, gạo nếp và muối. Tương nổi bật với màu vàng hấp dẫn, mùi vị đậm đà, chua ngọt hài hòa cùng với hương thơm đặc trưng. Nhờ bí quyết độc đáo, loại tương này mang hương vị thơm ngon đặc biệt, hơn hẳn nhiều nơi khác. Thời xưa, tương được dùng làm sản vật "tiến vua", đến nay vẫn là thứ gia vị quen thuộc và là biểu tượng đặc sắc của nền ẩm thực miền Bắc.

Một trong những sản vật "tiến vua" nức tiếng khác khiến du khách mong muốn về Hưng Yên thưởng thức chính là gà Đông Tảo - giống gà quý hiếm và đặc hữu của xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, hiện đang được bảo tồn nguồn gen. Gà Đông Tảo nổi bật với đôi chân to lớn, xù xì như vảy rồng, tạo nên dáng vẻ bệ vệ, vững chãi. Gà trống trưởng thành có thể đạt trọng lượng trên 5,5 kg, với lớp da đỏ dày, thịt săn chắc và vị ngọt đậm đà đặc trưng. Giống gà này thường xuất hiện trong các dịp lễ, Tết, cưới hỏi, hoặc được chọn làm quà biếu cao cấp, có những con gà đẹp có thể được bán với giá hàng chục triệu đồng. Ngày 10 tháng 6 năm 2025, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quyết định đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Tri thức dân gian Nuôi và chế biến gà Đông Tảo.[76]
Ngoài ra, nền ẩm thực Hưng Yên còn rất nhiều món đặc sản khác có thể kể đến như: mật ong hoa nhãn Hưng Yên, rượu Lạc Đạo, bún thang lươn Phố Hiến, bánh cuốn Phú Thị, bánh khoai sọ Hưng Yên, bánh răng bừa/bánh tẻ Văn Giang, bánh cáy/ kẹo lạc làng Nguyễn, bánh chưng Cầu Báng, bánh giầy làng Gàu, giò chả Trai Trang, chả gà Tiểu Quan, giò bì Phố Xuôi, ếch om Phượng Tường, bánh khúc Hưng Yên, bột sắn dây Hưng Yên, cơm nắm Lạc Đạo, miến dong Lại Trạch, vải trứng Hưng Yên, bưởi Hoàng, ổi Bo, hồng xiêm nhót Lô Giang, táo Thiện Phiến, chuối tiêu hồng Khoái Châu, hạt sen/mứt sen Hưng Yên, cam Văn Giang, nghệ Chí Tân, chả nướng Đình Dù, đậu phụ làng Kênh, giò lây Thái Bình, nước mắm Diêm Điền, bánh giò Bến Hiệp, bánh gai Đại Đồng, bánh rắn Đô Kỳ, đậu phụ An Vĩ, củ niễng Hồng Châu, vờ vờ sông Hồng, cá mòi, canh cá rô Hưng Yên, trà hoa cúc chi Nghĩa Trai, kẹo lạc Phố Hiến, bánh cuốn Tiền Hải, chả rươi Kiến Xương, cá nướng Thái Xuyên, bánh hú Song An, bánh âm Văn Lâm, bún tươi Viên Tiêu, rượu nếp Trương Xá, tôm cuốn Yên Vĩnh, bánh tày làng Nôm, bánh đa nướng An Viên, bóng bì Tân Quang, mứt táo làng Vị, mứt bí thôn Dâu, giò lây Kim Động, gỏi cá Vũ Thắng, canh cá Quỳnh Côi, gỏi nhệch, nộm sứa Thái Thụy, bánh nghệ Tiền Hải, bánh đa làng Me, bún bung hoa chuối Thái Bình...
Thể dục và thể thao
[sửa | sửa mã nguồn]Tính đến năm 2024, toàn tỉnh Hưng Yên có hơn 2.000 câu lạc bộ, điểm, nhóm thể dục - thể thao (TDTT) duy trì hoạt động thường xuyên. Số người tập luyện TDTT thường xuyên của tỉnh đạt tỉ lệ 35,5% so với dân số; số gia đình tập luyện TDTT thường xuyên đạt 30% so với tổng số hộ gia đình.[77] Các bộ môn TDTT phổ biến ở tỉnh Hưng Yên gồm: bóng đá, cầu lông, chạy bộ, bóng bàn, bóng chuyền, đá cầu, bi-a, pickleball, đạp xe, đấu vật, cờ tướng, thể thao điện tử...
Ngày 28 tháng 10 năm 2022, Lễ khai mạc Đại hội TDTT tỉnh Hưng Yên đã được tổ chức long trọng tại Quảng trường Nguyễn Văn Linh. Đại hội TDTT tỉnh Hưng Yên là sự kiện thể thao quy mô lớn, được tổ chức định kỳ 4 năm một lần.[78] Đây là hoạt động có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng, thể hiện sự quan tâm của tỉnh đối với sự phát triển TDTT trên địa bàn. Việc tổ chức Đại hội không chỉ góp phần thúc đẩy phong trào rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại, mà còn tạo chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò, lợi ích thiết thực của TDTT trong việc nâng cao thể lực, tầm vóc và chất lượng cuộc sống của nhân dân, hướng tới phát triển con người toàn diện.
Bóng đá
[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 20 tháng 11 năm 2017, PVF tổ chức lễ khánh thành Trung tâm Đào tạo Bóng đá trẻ PVF (nay thuộc quản lý của Bộ Công an) tại xã Long Hưng, huyện Văn Giang. Trung tâm được xây dựng trên diện tích gần 22 ha với tiêu chuẩn quốc tế: có 7 sân cỏ chất lượng FIFA Quality Pro (1 sân thi đấu 3.600 chỗ, 6 sân tập), sân cỏ trong nhà, phòng tập giả lập 360s và thiết bị PlayerTek theo dõi hiệu suất thi đấu của cầu thủ đầu tiên tại châu Á.[79] Ngoài ra, trung tâm còn sở hữu tổ hợp khoa học thể thao hiện đại (gym, phục hồi chức năng) và ký túc xá 8 tầng tích hợp đầy đủ tiện nghi: thư viện, phòng chiếu phim, nhà ăn, phòng học chiến thuật. Ngày 24 tháng 9 năm 2020, trung tâm được Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) cấp chứng nhận AFC Three-Star Academy.[80] Đây là mức cao nhất trong thang điểm đánh giá chất lượng của hệ thống đào tạo bóng đá trẻ tại châu Á.
Ngày 19 tháng 10 năm 2025, Bộ Công an tổ chức lễ khởi công xây dựng Sân vận động PVF thuộc TTĐT Bóng đá trẻ PVF tại xã Nghĩa Trụ, tỉnh Hưng Yên. Sân có diện tích hơn 55.000 m², sức chứa 60.000 chỗ ngồi, đạt chuẩn FIFA và đủ điều kiện đăng cai tổ chức các giải đấu quốc tế lớn như Olympic, ASIAD, FIFA World Cup. Đây sẽ là SVĐ có sức chứa lớn nhất Việt Nam khi vượt qua SVĐ Quốc gia Mỹ Đình với 40.000 chỗ. Điểm nổi bật của SVĐ là hệ thống mái vòm có thể đóng mở hoàn toàn tự động trong khoảng 12 - 20 phút. Bên cạnh đó, mặt sân sử dụng công nghệ cỏ mô-đun hybrid - kết hợp giữa cỏ tự nhiên và cỏ nhân tạo, giúp tăng độ bền, khả năng thoát nước, chịu tải lớn và bảo trì thuận tiện.[81]

CLB bóng đá PVF–CAND (tên trước đây là CLB bóng đá Phố Hiến), được thành lập từ tháng 4 năm 2018, là CLB bóng đá chuyên nghiệp đầu tiên trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. CLB hiện đang thi đấu tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam (V.League 1), có trụ sở và sân nhà đặt tại SVĐ TTĐT Bóng đá trẻ PVF. Ngoài ra, CLB còn có đội Trẻ PVF-CAND đang thi đấu tại V.League 2.
Tỉnh Hưng Yên là nơi sản sinh ra nhiều tài năng bóng đá cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Thái Bình cũ. Các cầu thủ nổi bật nhất có thể kể đến như: Vũ Công Tuyền, Đoàn Văn Hậu, Nguyễn Tuấn Anh, Trần Minh Vương, Bùi Hoàng Việt Anh, Nhâm Mạnh Dũng, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Đình Triệu, Trần Trung Kiên, Nguyễn Văn Trường...
Ở cấp độ bóng đá nhi đồng, đội bóng U11 Thái Bình đã từng hai lần vô địch Giải Bóng đá Nhi đồng (U11) toàn quốc vào các năm 1997 và 2010.[82] Đội bóng U11 Hưng Yên cũng lần đầu bước lên bục vinh quang của giải đấu danh giá này vào năm 2025.[83]
Bóng chuyền
[sửa | sửa mã nguồn]CLB bóng chuyền Hưng Yên hay Geleximco Hưng Yên, tiền thân là CLB bóng chuyền Thái Bình, được thành lập năm 1964, là một CLB bóng chuyền nữ chuyên nghiệp đang thi đấu tại Giải Bóng chuyền Vô địch Quốc gia Việt Nam. Đội đã hai lần giành được ngôi vô địch quốc gia vào năm 2007 và 2022, ba lần giành á quân ở các năm 2004, 2006 và 2008.[84]
Golf
[sửa | sửa mã nguồn]Sân golf Ecopark, thuộc Học viện Golf EPGA, nằm trong khuôn viên khu đô thị xanh Ecopark (xã Phụng Công) đã đi vào hoạt động từ năm 2018. Đây là học viện golf đào tạo toàn diện, đồng thời được lựa chọn là Trung tâm Huấn luyện golf Quốc gia Việt Nam.
Ngày 21 tháng 5 năm 2025, lễ khởi công dự án Khu phức hợp đô thị, du lịch sinh thái và sân golf Khoái Châu (Trump International Hưng Yên) đã được tổ chức. Dự án có quy mô diện tích gần 1.000 ha, tổng mức đầu tư trên 1,5 tỷ USD; bao gồm hệ thống sân golf VIP 54 hố, khu nghỉ dưỡng, biệt thự cao cấp, quần thể đô thị hiện đại và các tiện ích theo tiêu chuẩn quốc tế.[85] Đây là dự án mang tầm cỡ quốc tế, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Hưng Yên nói riêng và cả nước nói chung.
Pencak silat
[sửa | sửa mã nguồn]Hiện nay, Trung tâm Huấn luyện và Thi đấu Thể thao tỉnh Hưng Yên đang quản lý và đào tạo 235 vận động viên thuộc 13 bộ môn thể thao khác nhau. Trong đó, pencak silat được xem là môn võ thuật thế mạnh số 1 của Hưng Yên tại đấu trường trong nước và quốc tế. Bộ môn này đã sản sinh ra nhiều vận động viên tiêu biểu như: Bùi Bá Đức, Vũ Duy Thành, Nguyễn Hữu Hùng, Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Thị Thảo... Chỉ riêng trong năm 2024, pencak silat đã mang về cho thể thao tỉnh 37 huy chương tại các giải đấu quốc gia, gồm: 8 HCV, 11 HCB và 18 HCĐ, khẳng định vị thế vượt trội của Hưng Yên trong môn thể thao này.[77]
Wushu
[sửa | sửa mã nguồn]Wushu chính thức được đưa vào chương trình tập luyện chuyên nghiệp của tỉnh Hưng Yên từ năm 2004. Nhờ sự đầu tư, chỉ đạo, cùng với nỗ lực của huấn luyện viên và vận động viên, đội tuyển Hưng Yên đã đạt được các thành tích đáng kể. Trong gần 20 năm kể từ khi thành lập, các VĐV wushu của tỉnh đã dành được gần 200 huy chương các loại ở các giải trong nước và quốc tế (trong đó có gần 100 HCV), ở cả 2 nội dung: Taolu (biểu diễn) và Sanda (đối kháng).[86] Môn thể thao này được xem là một trong những "mỏ vàng" của thể thao thành tích cao Hưng Yên.
Các gương mặt điển hình của wushu Hưng Yên có thể kể đến như: Đào Thị Lan, Đoàn Thị Liên, Mai Mỹ Trinh, Nguyễn Nhật Tuấn...
Thành tích và hạn chế
[sửa | sửa mã nguồn]Tổng kết năm 2024, các vận động viên của tỉnh đã tham gia thi đấu 39 giải thể thao quốc gia, giành tổng số 140 huy chương các loại, trong đó có: 22 HCV, 35 HCB, 83 HCĐ; vượt chỉ tiêu và kế hoạch đề ra.[77] Những thành tích này không chỉ khẳng định tiềm năng phát triển thể thao thành tích cao của Hưng Yên mà còn góp phần nâng cao vị thế của tỉnh trên bản đồ thể thao quốc gia và khu vực.
Tuy đã có những bước đầu tư, sự quan tâm, nâng cấp và cải thiện, song lĩnh vực TDTT của tỉnh vẫn gặp phải một số khó khăn và hạn chế. Hệ thống cơ sở hạ tầng TDTT tại địa phương vẫn chưa đáp ứng đủ điều kiện tập luyện, thi đấu và tổ chức các giải đấu lớn. Kinh phí dành cho lĩnh vực này còn hạn chế, dẫn đến chế độ tập luyện cho huấn luyện viên và vận động viên chưa được đảm bảo, trong khi chính sách đãi ngộ chưa thực sự hấp dẫn, không tạo được động lực thu hút và giữ chân nhân lực chất lượng cao trong thể thao thành tích cao. Bên cạnh đó, việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào huấn luyện và thi đấu thể thao còn chậm, chưa triển khai đồng bộ và sâu rộng.
Giao thông
[sửa | sửa mã nguồn]Hưng Yên là tỉnh có vị trí trung tâm và chiến lược trong vùng đồng bằng sông Hồng, liền kề thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng cũng như các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ như Quảng Ninh, Bắc Ninh. Điều này giúp tạo điều kiện thuận lợi cho Hưng Yên để phát triển hạ tầng giao thông, từ đó mở ra tiềm năng thu hút đầu tư, phát triển khu công nghiệp, đô thị mới, lưu thông vận tải hàng hóa nhanh chóng và thúc đẩy liên kết vùng.
Đường bộ
[sửa | sửa mã nguồn]Hưng Yên sở hữu hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ khá phát triển và đang tiếp tục được nâng cấp và cải thiện. Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Hưng Yên trở thành đầu mối lớn trong kết nối giao thương, công nghiệp và logistics với thủ đô Hà Nội, các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và khu vực đồng bằng sông Hồng.
Đường quốc lộ
[sửa | sửa mã nguồn]
Các tuyến đường quốc lộ trọng điểm đi qua địa bàn tỉnh gồm:
- Quốc lộ 5 (QL.5): Tuyến huyết mạch kết nối Hà Nội - Hải Phòng, chạy qua các huyện Văn Lâm, Yên Mỹ và thị xã Mỹ Hào (cũ) của tỉnh Hưng Yên. Quốc lộ đi qua rất nhiều khu công nghiệp tại Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng nên mật độ phương tiện lớn, đặc biệt là các loại xe tải, xe container.
- Quốc lộ 10 (QL.10): Kết nối các tỉnh thành khu vực ven biển Bắc Bộ, đi qua huyện Quỳnh Phụ, huyện Đông Hưng, thành phố Thái Bình, huyện Vũ Thư (cũ).
- Quốc lộ 37 (QL.37): Từ huyện Thái Thụy (cũ) kết nối với nhiều tỉnh thành đồng bằng, trung du và miền núi Bắc Bộ.
- Quốc lộ 37B (QL.37B): Chạy qua các huyện Thái Thụy, Tiền Hải, Kiến Xương (cũ).
- Quốc lộ 38 (QL.38): Kết nối các tỉnh Bắc Ninh - Hải Dương - Hưng Yên - Hà Nam, đi qua thị xã Mỹ Hào, các huyện Ân Thi, Kim Động, thành phố Hưng Yên (cũ) và giao cắt với 2 tuyến cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và Hưng Yên - Thái Bình trên địa phận tỉnh Hưng Yên.
- Quốc lộ 38B (QL.38B): Chạy qua thành phố Hưng Yên và các huyện Tiên Lữ, Phù Cừ (cũ).
- Quốc lộ 39 (QL.39): Chạy xuyên tỉnh từ thị xã Mỹ Hào tới các huyện Yên Mỹ, Khoái Châu, Kim Động, thành phố Hưng Yên, huyện Tiên Lữ, Hưng Hà, Đông Hưng, thành phố Thái Bình, huyện Thái Thụy (cũ); giúp kết nối nội vùng, các khu công nghiệp và thông thương với các địa phương trong tỉnh.
Đường cao tốc
[sửa | sửa mã nguồn]Đầu tư và phát triển hệ thống đường cao tốc là một trong những mục tiêu trọng yếu của tỉnh Hưng Yên trong những năm gần đây. Các tuyến đường cao tốc đã, đang và sẽ được triển khai trên địa bàn tỉnh Hưng Yên bao gồm:
- Đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (CT.04): Dự án trọng điểm quốc gia, là cao tốc đầu tiên của Việt Nam được thiết kế và xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế. Tuyến đường đi qua Hà Nội, Hưng Yên và Hải Phòng, trong đó đoạn đi qua tỉnh Hưng Yên dài hơn 26 km.
- Đường cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng (CT.08) (đang thi công): Đi qua Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Phòng, trong đó đoạn đi qua tỉnh Hưng Yên dài 32,7 km.
- Đường cao tốc Chợ Bến - Yên Mỹ (CT.14) (dự kiến khởi công sau năm 2030): Kết nối Phú Thọ - Hà Nội - Ninh Bình - Hưng Yên, trong đó đoạn qua địa bàn tỉnh Hưng Yên dài khoảng 12 km. Điểm đầu tại nút giao Yên Mỹ và điểm cuối nhập vào cầu Chí Tân - liên kết sang địa phận xã Phú Xuyên (Hà Nội).
- Đường cao tốc Hưng Yên - Thái Bình (CT.16): Thuộc dự án tuyến đường nối 2 cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và Cầu Giẽ - Ninh Bình. Điểm đầu của tuyến đường nằm tại nút giao Yên Mỹ và điểm cuối nằm tại nút giao QL.39, tiếp nối cầu Hưng Hà. Toàn bộ tuyến đường đi qua tỉnh có tổng chiều dài 23,82 km.
- Đường vành đai 3,5 Hà Nội (đang thi công): Tuyến đường trục chính ở phía Bắc tỉnh Hưng Yên, kết nối với Hà Nội qua cầu Ngọc Hồi, đoạn trên địa phận tỉnh Hưng Yên dài hơn 9,2 km. Tuyến đường đi qua các khu đô thị lớn như Ecopark, Vinhomes Ocean Park 2 và 3 với điểm cuối giao với QL.5.
- Đường vành đai 4 vùng Thủ đô (CT.38) (đang thi công): Dự án trọng điểm quốc gia đi qua Hà Nội - Hưng Yên - Bắc Ninh, với đoạn tuyến đi qua tỉnh Hưng Yên dài 19,3 km; khi hoàn thành sẽ tạo trục liên kết đô thị - công nghiệp - logistics giữa Hưng Yên và các tỉnh vệ tinh của thủ đô Hà Nội.
- Đường vành đai 5 vùng Thủ đô (CT.39) (dự kiến khởi công sau năm 2030): Đi qua Hà Nội - Phú Thọ - Ninh Bình - Hưng Yên - Hải Phòng - Bắc Ninh - Thái Nguyên. Trong đó, đoạn đi qua tỉnh Hưng Yên dài 28,5 km.
Đường tỉnh
[sửa | sửa mã nguồn]
- Đường liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên (đã thi công xong Đoạn 1): Có tổng chiều dài hơn 33 km, đi qua nhiều KCN lớn của tỉnh Hưng Yên. Tuyến đường gồm hai đoạn: Đoạn 1 dài 14,5 km, điểm đầu tại vòng xuyến KĐT Ecopark, đi qua vòng xuyến Văn Giang, chạy theo trục ĐT.379 và đi thẳng để tới nút giao với QL.39 (nằm cạnh nút giao Yên Mỹ); Đoạn 2 (kéo dài) có chiều dài khoảng 18,5 km, tiếp tục từ đoạn giao với ĐT.380 với QL.39 đến cầu Gáy (tiếp giáp tỉnh Bắc Ninh).
- Hệ thống đường tỉnh: ĐT.376, ĐT.377, ĐT.378, ĐT.379, ĐT.382, ĐT.385, ĐT.452, ĐT.453, ĐT.454,... được đầu tư cải tạo, mở rộng, giúp tăng năng lực vận chuyển hàng hóa, giao thương, kết nối giữa các địa phương trong tỉnh.
- Đường kết nối di sản văn hóa, du lịch và phát triển kinh tế dọc sông Hồng (đang thi công): Tuyến đường đi dọc theo sông Hồng, giáp ranh giữa Hưng Yên và Hà Nội, với tổng chiều dài khoảng 55,7 km, quy mô 4 làn xe với đường gom 2 bên. Khi hoàn thành, dự án sẽ tạo bước đột phá trong phát triển hạ tầng giao thông của tỉnh, đồng thời góp phần hình thành tuyến đường liên kết vùng, kết nối các di sản văn hóa và điểm đến tâm linh dọc theo sông Hồng.
- Đường Tân Phúc - Võng Phan (đang thi công): Dự án giao thông trục dọc của tỉnh Hưng Yên. Tuyến đường giao với ÐT.378, trong đó nhánh chính dài 24,3 km đi qua 3 huyện Ân Thi, Tiên Lữ, Phù Cừ (cũ); nhánh phụ kết nối với cầu La Tiến dài khoảng 4,1 km. Tuyến đường được ví như là “trục xương sống” thứ 3 của tỉnh Hưng Yên, giúp kết nối đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng với tỉnh Ninh Bình.
Cầu đường
[sửa | sửa mã nguồn]Tỉnh Hưng Yên nằm cạnh các hệ thống sông lớn, vì vậy các cây cầu đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong giao thông liên tỉnh và nội tỉnh. Các cây cầu vượt sông quan trọng trong mạng lưới giao thông của tỉnh Hưng Yên bao gồm:

- Cầu Yên Lệnh: Nối phường Phố Hiến, Hưng Yên (thuộc thành phố Hưng Yên cũ) với phường Duy Tiên, Ninh Bình (thuộc thị xã Duy Tiên, Hà Nam cũ), trên QL.38. Cầu bắc qua sông Hồng, phần cầu chính có chiều dài 2,23 km và là cây cầu quan trọng trong trục giao thông Bắc Nam.
- Cầu Hưng Hà: Phần cầu chính có chiều dài khoảng 2,12 km, bắc qua sông Hồng, nối các xã Tân Hưng và phường Hồng Châu, Hưng Yên với xã Bắc Lý, Ninh Bình (thuộc huyện Lý Nhân, Hà Nam cũ). Cầu có quy mô lớn, tạo điều kiện phát triển kinh tế với khu vực phía Nam đồng bằng sông Hồng.
- Cầu Sông Hồng: Có tổng chiều dài 1,4 km, vượt sông Hồng, nối tỉnh Hưng Yên (thuộc huyện Tiền Hải, Thái Bình cũ) và tỉnh Ninh Bình (thuộc huyện Giao Thủy, Nam Định cũ).
- Cầu La Tiến: Bắc qua sông Luộc, dài khoảng 1 km, thuộc dự án tuyến đường vành đai 5 vùng Thủ đô, nối xã Tống Trân, Hưng Yên (thuộc huyện Phù Cừ cũ) với xã Diên Hà, Hưng Yên (thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình cũ).

- Cầu Bắc Hưng Hải: Bắc qua sông Bắc Hưng Hải, dài khoảng 531 m, nằm trên trục ĐT.379 của tuyến đường liên tỉnh Hà Nội - Hưng Yên, thuộc xã Phụng Công, Hưng Yên (thuộc huyện Văn Giang cũ); giúp kết nối tới huyện Gia Lâm (cũ) và nội đô của Hà Nội.
- Cầu Triều Dương: Bắc qua sông Luộc, dài khoảng 400 m, nằm trên tuyến QL.39, nối xã Tiên Lữ, Hưng Yên (thuộc huyện Tiên Lữ cũ) với xã Long Hưng, Hưng Yên (thuộc huyện Hưng Hà, Thái Bình cũ).
- Cầu Thái Hà: Bắc qua sông Hồng, nối 2 tỉnh Hưng Yên (Thái Bình cũ) và Ninh Bình (Hà Nam cũ).
- Cầu Tân Đệ: Bắc qua sông Hồng, nối 2 tỉnh Hưng Yên (Thái Bình cũ) và Ninh Bình (Nam Định cũ).
- Cầu Hiệp: Bắc qua sông Luộc, nối 2 tỉnh Hưng Yên (Thái Bình cũ) và Hải Phòng (Hải Dương cũ).
- Cầu Ngọc Hồi (đang thi công): Đoạn cầu chính vượt sông Hồng dài khoảng 680 m, nằm trên tuyến đường vành đai 3,5, kết nối xã Thanh Trì, Hà Nội (thuộc huyện Thanh Trì cũ) và xã Văn Giang, Hưng Yên (thuộc huyện Văn Giang cũ). Cầu được kỳ vọng rút ngắn quãng đường di chuyển, tăng liên kết giữa Hà Nội với Hưng Yên và các khu đô thị lớn (như Ecopark, Vinhomes Ocean Park 2 và 3). Đồng thời, cầu cũng góp phần giảm tải cho cầu Thanh Trì và cầu Vĩnh Tuy, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.
- Cầu Mễ Sở (dự kiến khởi công sau năm 2025): Cầu bắc qua sông Hồng, thuộc dự án đường vành đai 4 vùng Thủ đô, nối xã Hồng Vân, Hà Nội (thuộc huyện Thường Tín cũ) với xã Mễ Sở, Hưng Yên (thuộc huyện Văn Giang cũ).
- Cầu Chí Tân (chưa có kế hoạch khởi công): Bắc qua sông Hồng, nối 2 xã là Phú Xuyên, Hà Nội (thuộc huyện Phú Xuyên cũ) và Châu Ninh, Hưng Yên (thuộc huyện Khoái Châu cũ), thuộc dự án đường cao tốc Chợ Bến - Yên Mỹ.
Giao thông công cộng
[sửa | sửa mã nguồn]
Hiện nay, hệ thống giao thông công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên chủ yếu kết nối với Hà Nội và chưa phát triển đồng bộ, chủ yếu phục vụ nhu cầu đi lại liên tỉnh cơ bản của người dân tại các khu vực đô thị. Một số tuyến xe buýt tiêu biểu đi qua địa bàn tỉnh Hưng Yên gồm:
- Tuyến 40: Văn Lâm (Hưng Yên) - Công viên Thống Nhất (Hà Nội)
- Tuyến 205: Bến xe Hưng Yên - Bến xe Gia Lâm (Hà Nội)
- Tuyến 207: Bến xe Triều Dương (Hưng Yên) - Bến xe Gia Lâm (Hà Nội)
- Tuyến 208: Bến xe Hưng Yên - Bến xe Giáp Bát (Hà Nội)
- Tuyến 209: Bến xe Triều Dương (Hưng Yên) - Bến xe Giáp Bát (Hà Nội)
- Tuyến 216: Bến xe Triều Dương (Hưng Yên) - Bến xe Hải Dương (Hải Phòng)
- Các tuyến xe buýt khác có điểm dừng đỗ và lộ trình qua tỉnh: 47A, 47B, 69, 202...
- Các tuyến xe buýt Ecobus: Khu đô thị Ecopark (Hưng Yên) - Hà Nội
- Các tuyến xe buýt VinBus OCT1, OCT2, OCP1, OCP2: Nội khu Vinhomes Ocean Park 2 và 3 (Hưng Yên) - Hà Nội
Đường sắt
[sửa | sửa mã nguồn]Trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng dài 17 km, đi qua huyện Văn Lâm với ga Lạc Đạo và ga Tuấn Lương nhưng không đón trả khách. Mặc dù chưa phát triển mạnh về vận tải hành khách, tuyến đường sắt này vẫn đóng vai trò nhất định trong vận chuyển hàng hóa, đặc biệt là hàng công nghiệp, vật liệu xây dựng.
Đường thủy
[sửa | sửa mã nguồn]Với mạng lưới hệ thống sông ngòi dày đặc, cùng với vị trí địa lý giáp Vịnh Bắc Bộ (thuộc Biển Đông), Hưng Yên có điều kiện thuận lợi để phát triển giao thông đường thủy:
- Sông Hồng: Tuyến vận tải thủy quốc gia rất quan trọng, chạy dọc phía Tây tỉnh, thuận tiện cho việc giao thương hàng hóa với Hà Nội và các tỉnh hạ lưu. Dọc sông có nhiều bến phà, bến đò phục vụ cho giao thông liên tỉnh.
- Sông Luộc, sông Trà Lý, sông Bắc Hưng Hải: Các tuyến vận tải thủy nội địa phục vụ vận chuyển nông sản, vật liệu xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp ven sông.
- Cảng Diêm Điền: Cảng biển "cửa ngõ", có vai trò chiến lược trong phát triển kinh tế vùng ven biển.
Hình ảnh
[sửa | sửa mã nguồn]-
Nhà thờ Giáo xứ Hưng Yên
-
Thánh đường Giáo xứ An Lập
-
Gác trống Chùa Nôm
-
Gác chuông Chùa Keo
-
Tượng Phật Quan Âm nghìn mắt nghìn tay ở Chùa Mễ Sở
-
Lăng mộ Thượng tướng quân Doãn Nỗ
-
Khu căn hộ Rừng Cọ, Ecopark
-
Hoàng hôn tại Ecopark
-
Khu TTTM và nhà phố Như Quỳnh Center
-
Bảo tàng Thái Bình
-
Nhà Văn hóa Lao động Thái Bình
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c "Nghị quyết số 202/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh". Cổng thông tin điện tử Quốc hội Việt Nam. ngày 12 tháng 6 năm 2025. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2025.
- ^ "Danh sách dự kiến tên gọi của 34 tỉnh, thành phố và trung tâm chính trị - hành chính". Thời báo VTV - Đài Truyền hình Việt Nam. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Lịch sử tỉnh Hưng Yên - mảnh đất phù sa màu mỡ, đậm truyền thống văn hóa". Báo cáo viên (Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương). ngày 29 tháng 3 năm 2025.
- ^ Đào Duy Anh. Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời. Huế: Thuận Hóa, 1995.
- ^ Nghị định số 625-TTg năm 1955 của Thủ tướng Chính phủ.
- ^ Nghị định 129-TTg năm 1958 của Thủ tướng Chính phủ.
- ^ Nghị quyết của Quốc hội khóa II ngày 20-4-1961.
- ^ Nghị quyết của Quốc hội khóa III ngày 27-1-1968.
- ^ Quyết định số 93-CP năm 1969 của Hội đồng Chính phủ.
- ^ Quyết định 58-CP năm 1977 về việc hợp nhất một số huyện thuộc tỉnh Hải Hưng do Hội đồng Chính phủ ban hành
- ^ Quyết định 70-CP năm 1979 về việc hợp nhất và điều chỉnh địa giới một số huyện thuộc tỉnh Hải Hưng do Hội đồng Chính phủ ban hành
- ^ Nghị định 05-CP năm 1996 về việc chia các huyện Tứ Lộc, Ninh Thanh, Kim Thi thuộc tỉnh Hải Hưng
- ^ Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh do Quốc hội ban hành
- ^ Nghị định 17-CP năm 1997 về việc chia huyện Phù Tiên, thành lập một số phường, thị trấn thuộc thị xã Hưng Yên và huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên
- ^ Nghị định 60/1999/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính và chia các huyện Mỹ Văn và Châu Giang, tỉnh Hưng Yên
- ^ Quyết định số 02-HĐBT năm 1982 của Hội đồng Bộ trưởng.
- ^ Nghị định 04/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Hưng Yên thuộc tỉnh Hưng Yên
- ^ "Nghị quyết 656/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập thị xã Mỹ Hào thuộc tỉnh Hưng Yên và 07 phường thuộc Mỹ Hào".
- ^ "Vietnam Building Code Natural Physical & Climatic Data for Construction" (PDF). Vietnam Institute for Building Science and Technology. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2018.
- ^ "Hưng Yên: Quản lý chặt chẽ hoạt động khai thác khoáng sản". Báo Hưng Yên. ngày 2 tháng 5 năm 2023.
- ^ a b "Công nghiệp Hưng Yên tiếp tục có những khởi sắc mới". Sở Công thương tỉnh Hưng Yên. ngày 14 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Hưng Yên phát triển khu công nghiệp, thu hút đầu tư". Ban Tuyên giáo và Dân vận Tỉnh ủy Hưng Yên. ngày 12 tháng 2 năm 2025.
- ^ "Hưng Yên: Danh sách các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động". Ban Quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh Hưng Yên. ngày 25 tháng 4 năm 2025.
- ^ "Hung Yen attracts 1.4 billion USD in foreign direct investment in 2024". People's Army Newspaper. ngày 3 tháng 1 năm 2025.
- ^ a b "Sản xuất nông nghiệp vượt khó". Báo Hưng Yên. ngày 1 tháng 1 năm 2025.
- ^ a b c "Thu hút đầu tư lĩnh vực sản xuất, chế biến nông sản". Báo Hưng Yên. ngày 26 tháng 12 năm 2024.
- ^ a b "Nông nghiệp Hưng Yên hướng tới sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị, hiệu quả và an toàn". Báo Nhân Dân. ngày 1 tháng 6 năm 2023.
- ^ "Phát triển thương mại – dịch vụ theo quy hoạch". Cổng thông tin điện tử Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên. ngày 17 tháng 7 năm 2024.
- ^ "Nâng hạng chỉ số thương mại điện tử". Cổng thông tin điện tử Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên. ngày 13 tháng 1 năm 2025.
- ^ UBND tỉnh Hưng Yên (ngày 29 tháng 11 năm 2019). "Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2019 và mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp năm 2020" (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2019.
- ^ "Tổng cục Thống kê làm việc với UBND tỉnh Hưng Yên". Tạp chí Con số & Sự kiện. ngày 28 tháng 10 năm 2022.
- ^ "Năm 2024, thu ngân sách Nhà nước đạt trên 40.000 tỷ đồng". Báo Hưng Yên. ngày 3 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Tỉnh Hưng Yên: Quyết tâm hoàn thành vượt mục tiêu xây dựng nông thôn mới". Tạp chí Con số & Sự kiện. ngày 14 tháng 11 năm 2024.
- ^ a b Cơ quan Thống kê Quốc gia - Cục Thống kê (Bộ Tài chính) (2023). "Niên giám thống kê 2022" (PDF).
- ^ "104 đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Hưng Yên năm 2025". TTXVN. ngày 18 tháng 7 năm 2025.
- ^ Căn cứ theo Đề án số 360/ĐA-CP của Chính phủ ngày 09 tháng 5 năm 2025 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Hưng Yên (mới) năm 2025
- ^ a b c Sở Nội Vụ, UBND tỉnh Hưng Yên (ngày 22 tháng 4 năm 2022). "V/v đề nghị xây dựng VBQPPL thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh về QLNN lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo" (PDF).
- ^ "Triển khai nhiệm vụ năm học 2024 - 2025". Cổng thông tin điện tử Tỉnh Hưng Yên. ngày 20 tháng 8 năm 2024. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2025.
{{Chú thích web}}: Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết) - ^ "Hưng Yên xin dừng triển khai đô thị đại học Phố Hiến: Nút thắt nằm ở đâu?". Báo Giáo dục và Thời đại. ngày 27 tháng 12 năm 2022.
- ^ "Những chàng trai 'chân đất' vô địch Robocon châu Á - Thái Bình Dương". Báo VnExpress. ngày 27 tháng 8 năm 2015.
- ^ a b c d "Hưng Yên tăng cường bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân". Báo Nhân Dân. ngày 24 tháng 9 năm 2024.
- ^ "Tổng quan về Hưng Yên". Cổng thông tin điện tử Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên. ngày 4 tháng 1 năm 2024.
- ^ TTXVN (ngày 22 tháng 11 năm 2023). "UNESCO vinh danh Đại danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác". Cổng thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
- ^ "UNESCO thông qua nghị quyết vinh danh Danh nhân văn hóa Lê Quý Đôn". Báo Điện tử Chính phủ. ngày 31 tháng 10 năm 2025.
- ^ Kết, Báo Đại Đoàn (ngày 10 tháng 12 năm 2021). "'Điểm danh' 38 đường, phố mới được đặt tên ở Hà Nội". Báo Đại Đoàn Kết. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2025.
- ^ "100 năm ngày sinh KTS Tạ Mỹ Duật (1910-2010) - Tạp chí Kiến Trúc". Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam. ngày 3 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Tạ Quốc Luật - Người anh hùng dẫn đầu tổ xung kích bắt sống Tướng De Castries". Báo Quân đội nhân dân. ngày 9 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Nhạc sĩ Nguyễn Vĩnh Bảo được đặt tên cho đường phố Hà Nội". Tạp chí Người Hà Nội. ngày 17 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Lễ hội Tiên Dung-Chử Đồng Tử: Huyền thoại về tình yêu cao đẹp, bất tử". Báo VietnamPlus. ngày 19 tháng 5 năm 2023. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2025.
- ^ a b "16 Di tích trong khu Di tích Quốc gia đặc biệt Phố Hiến". Cổng thông tin điện tử Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên. ngày 15 tháng 12 năm 2023.
- ^ a b "Lễ công bố danh mục di sản văn hoá phi vật thể quốc gia Lễ hội truyền thống đền An Xá - Lễ hội Đậu An và khai mạc lễ hội năm 2024". Báo Hưng Yên. ngày 13 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Đặc sắc lễ hội Cầu mưa". Báo Nhân Dân điện tử. ngày 17 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Lễ hội đền Tống Trân, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên". Ban Quản lý Di tích Tỉnh Hưng Yên. ngày 4 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Nét đẹp lễ hội đình Quan Xuyên". Báo Nhân Dân điện tử. ngày 11 tháng 3 năm 2025. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Làng Nôm - Ngôi làng cổ độc đáo và hấp dẫn ở tỉnh Hưng Yên". Báo VietnamPlus. ngày 29 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Lễ hội đền Phù Ủng". Báo Hưng Yên. ngày 26 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Hưng Yên: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, di tích lịch sử". Báo Hưng Yên. ngày 22 tháng 11 năm 2021.
- ^ "Hưng Yên có thêm 1 di tích được xếp hạng quốc gia đặc biệt". Báo Hưng Yên. ngày 27 tháng 11 năm 2024.
- ^ "Văn Lâm: Đón Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia đặc biệt chùa Thái Lạc". Báo Hưng Yên. ngày 17 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Hưng Yên hiện có 8 Bảo vật quốc gia". Báo Pháp luật. ngày 29 tháng 1 năm 2024.
- ^ dantoctongiao.congly.vn. "Thăm làng Nôm - Làng cổ Việt Nam". dantoctongiao.congly.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2025. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2025.
- ^ nguoihanoi.vn (ngày 7 tháng 8 năm 2017). "Hình thái kiến trúc đô thị cổ phố Hiến". Tạp chí Người Hà Nội. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2025.
- ^ "65 năm nhìn lại - Hội KTS Việt Nam, Với những công trình dấu ấn qua năm tháng (P1) - Tạp chí Kiến Trúc". Tạp chí Kiến trúc - Hội Kiến trúc sư Việt Nam. ngày 23 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2025.
- ^ tử, Báo Nhân Dân điện (ngày 28 tháng 9 năm 2005). "Dấu ấn của thế hệ kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên". Báo Nhân Dân điện tử. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Danh họa Tô Ngọc Vân: Một đời tài hoa, giản dị". Báo Đại Đoàn Kết. ngày 19 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Dương Bích Liên - sống và cống hiến thầm lặng". Báo Đại biểu Nhân dân. ngày 16 tháng 7 năm 2024. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Lương Xuân Nhị - họa sĩ của phái đẹp". Thời báo Ngân hàng. ngày 5 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Cá đá "cõng hồn" và chuyện thật về "hồn Trương Ba, da hàng thịt"". Báo Bắc Ninh. ngày 26 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Bí ẩn tượng đất hóa vàng trong ngôi chùa cổ Hưng Yên". Báo Tây Ninh Điện tử. ngày 29 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Phát huy truyền thống chiếng chèo Ðông". Báo Nhân Dân điện tử. ngày 30 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Ðoàn chèo Hưng Yên phát huy thế mạnh của nôi chèo". Báo Nhân Dân điện tử. ngày 30 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Lưu giữ làn điệu trống quân". Báo Nhân Dân điện tử. ngày 26 tháng 3 năm 2024. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Vị tổ ca trù có công giết giặc Minh". Báo Phụ nữ Việt Nam điện tử. ngày 10 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Lan tỏa dòng âm nhạc cổ "kén" người nghe". Báo Hưng Yên. ngày 30 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Rối nước làng Nguyên Xá". Báo Nhân Dân điện tử. ngày 27 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Tri thức dân gian nuôi và chế biến gà Đông Tảo là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia". Cổng Thông tin điện tử Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. ngày 10 tháng 6 năm 2025. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2025.
- ^ a b c "Dấu ấn thể thao Hưng Yên năm 2024". Báo Hưng Yên. ngày 29 tháng 1 năm 2025.
- ^ "Lễ khai mạc Đại hội Thể dục - Thể thao tỉnh Hưng Yên". Cổng thông tin điện tử Đảng bộ Tỉnh Hưng Yên. ngày 11 tháng 4 năm 2022.
- ^ "Vingroup sắp khánh thành trung tâm đào tạo bóng đá trẻ tại Hưng Yên". Báo VnExpress. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2018.
- ^ "PVF là một trong ba học viện đào tạo bóng đá tốt nhất Châu Á". Báo Dân trí. ngày 24 tháng 9 năm 2020.
- ^ "Tổng Bí thư Tô Lâm dự lễ khởi công xây dựng sân vận động tiên tiến hàng đầu thế giới". Báo Điện tử Chính phủ. ngày 19 tháng 10 năm 2025. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2025.
- ^ "U11 T&T Thái Bình vô địch giải Nhi đồng toàn quốc". Báo VnExpress. ngày 14 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Hưng Yên lần đầu vô địch Giải bóng đá nhi đồng U11 toàn quốc". Báo Nhân Dân điện tử. ngày 1 tháng 8 năm 2025. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Đội bóng chuyền nữ Việt Nam có thay đổi lịch sử ngay trước khi bước vào giải đấu quan trọng". Báo điện tử Thể thao & Văn hóa. ngày 15 tháng 9 năm 2025. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Thủ tướng dự lễ khởi công dự án Trump International Hưng Yên". Báo Điện tử Chính phủ. ngày 21 tháng 5 năm 2025. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2025.
- ^ "Wushu - "mỏ vàng" của thể thao Hưng Yên". Báo Hưng Yên. ngày 28 tháng 11 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2025.

