Hồ Hillier

Địa lý
Khu vựcGoldfields-Esperance, Tây Úc
Tọa độ34°05′45″N 123°12′10″Đ / 34,09583°N 123,20278°Đ / -34.09583; 123.20278
Kiểu hồHồ nước mặn
Quốc gia lưu vựcÚc
Độ dài tối đa600 m (2.000 ft)
Độ rộng tối đa250 m (820 ft)
Diện tích bề mặt15 ha (37 mẫu Anh)

Hồ Hillier (tiếng Anh: Lake Hiller) là một hồ nước mặn trên đảo Middle, đảo lớn nhất trong các đảo nhỏ thuộc quần đảo Recherche ở vùng Goldfields-Esperance, ngoài khơi bờ biển phía nam của Tây Úc. Đây là một trong những hồ nước đặc biệt nhất trên thế giới bởi màu hồng tự nhiên của nó. Tuy có màu sắc đặc biệt như vậy nhưng hồ nước này không có nhiều khách du lịch ghé thăm. Màu hồng của nước trong hồ là tự nhiên, không thay đổi, vẫn giữ nguyên màu khi nước được đưa ra khỏi hồ.[1] Chiều dài của hồ này khoảng 600 mét, rộng 250 mét và được bao quanh bởi một dải cát cùng cánh rừng dày đặc các loài cây tràmbạch đàn. Hồ nước được ngăn cách với Nam Đại Dương bởi một dải cồn cát hẹp bao phủ bởi các thảm thực vật.

Miêu tả[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Hiller có chiều dài khoảng 600 mét (2.000 ft) và rộng 250 m (820 ft).[2] Hồ được bao quanh bởi một dải cát hẹp bao phủ bởi thảm thực vật tách rời từ bờ biển phía bắc của đảo Middle, cùng cánh rừng dày đặc các loài cây tràmbạch đàn.[1][3] Điểm đáng chú ý nhất của hồ chính là màu hồng. Màu hồng của nước trong hồ là tự nhiên, không thay đổi, vẫn giữ nguyên màu khi nước được chuyển lên các container chứa nước. Màu hồng của hồ có thể được coi là do sự hiện diện của sinh vật Dunaliella salina.[4] Dự án Extreme Microbiome, một phần của Hiệp hội Tài nguyên Sinh học (ABRF), Tập đoàn Metagenomics Research (MGRG) đã tiến hành một phân tích Metagenomics trên hồ để tìm Dunaliella cũng như Salinibacter ruber, Dechloromonas aromatica và một vài loài vi khuẩn cổ[5]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Hồ Hillier được phát hiện bởi thuyền trưởng Flinders trong chuyến thám hiểm năm của ông vào ngày 1802. Ông đã quan sát được hồ nước này từ vị trí cao nhất trên đảo.[6]

Ở vùng đông bắc là một hồ nước nhỏ màu hồng; nước trong hồ khi ông Thistle phát hiện và giới thiệu cho tôi, đã quá bão hòa vào muối khiến số lượng muối tụ lại gần bờ đủ để tải lên một con tàu. Mẫu muối ông ấy mang lên tàu có chất lượng tốt, không có quy trình nào khác thích hợp hơn sấy khô để sử dụng.

Flinders một lần nữa đến thăm đảo Middle vào tháng 5 năm 1803, ông có ý định "dừng chân một hoặc hai ngày ở Vịnh Goose-Island, nhằm tìm kiếm thịt ngỗng cho những người bệnh, bịt dầu cho đèn của chúng tôi và một vài thùng tô nô muối từ hồ trên đảo Middle". Có thông tin rằng sau đó Flinders đặt tên hồ theo William Hillier, một thủy thủ đoàn của tàu Investigator đã chết vì bệnh kiết lị trước khi khởi hành chuyến thám hiểm từ đảo Middle.[7][8] Hồ được khai thác muối trong khoảng thời gian cuối thế kỉ 19. Các doanh nghiệp khai thác muối đã thất bại vì một số lý do, bao gồm "sự độc hại của muối đem đi để tiêu thụ".[8]

Tình trạng khu vực bảo vệ[sửa | sửa mã nguồn]

Gần nhất vào năm 2012, hồ Hiller đã nằm trong ranh giới của Khu bảo tồn Recherche Archipelago. Kể từ năm 2002, hồ Hiller được coi là một vùng đất ngập mặn "có ý nghĩa quan trọng của vùng".[9][10]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Bình An (ngày 5 tháng 11 năm 2012). “Những hồ nước màu hồng đặc biệt”. Newszing.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2017.
  2. ^ “Lake Hillier”. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2015.
  3. ^ “Ten Random Facts - Lake Hillier”. 2014. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2015.
  4. ^ A guide to managing and restoring wetlands in Western Australia (PDF). Department of Environment and Conservation. 2012. tr. 18–19. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2015.
  5. ^ Heger, Monica (ngày 7 tháng 3 năm 2016). “Extreme Microbiome Project Aims to Characterize Microbes Living in Harsh Environments”. genomeweb. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2016.
  6. ^ Flinders, Matthew (1966) [1814]. A Voyage to Terra Australis: undertaken for the purpose of completing the discovery of that vast country, and prosecuted in the years 1801, 1802, and 1803 in His Majesty's ship the Investigator, and subsequently in the armed vessel Porpoise and Cumberland Schooner; with an account of the shipwreck of the Porpoise, arrival of the Cumberland at Mauritius, and imprisonment of the commander during six years and a half in that island . Adelaide; Facsimile reprint of: London: G. and W. Nicol, 1814 ed. In two volumes, with an Atlas (3 volumes): Libraries Board of South Australia. tr. 200–202. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2014.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  7. ^ Flinders, Matthew (1966). A voyage to Terra Australis undertaken for the purpose of completing the discovery of that vast country, and prosecuted in the years 1801, 1802 and 1803, in his majesty's ship the Investigator, and subsequently in the armed vessel Porpoise and Cumberland schooner. With an account of the shipwreck of the Porpoise, arrival of the Cumberland at Mauritius, and imprisonment of the commander during six years and a half in that island. By Matthew Flinders Commander of the Investigator. In 2 volumes with an atlas. Volume 2. London: 1814 [Facsimile Edition, 1966] printed by W. Bulmer and Co. Cleveland row, and published by G. And W. Nicol, booksellers to his Majesty, pall-mall. G. and W. Nicol. tr. Book 2, Chapter 10. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2015.
  8. ^ a b Green, Jeremy; Souter, Corioli; Baker, Patrick (2001). “Department of Maritime Archaeology Visit to Middle Island, Recherche Archipelago, Esperance, 29 April–ngày 4 tháng 5 năm 2001, Report–Department of Maritime Archaeology Western Australian Maritime Museum No. 154” (PDF). Western Australian Maritime Museum. tr. 7. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2015.
  9. ^ Esperance and Recherche parks and reserves draft management plan 2012 (PDF). Department of Environment and Conservation, Government of Western Australia. tháng 10 năm 2012. tr. 15 & 108. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2015.
  10. ^ A Biodiversity Audit of Western Australia’s 53 Biogeographical Subregions in 2002 (PDF). Department of Conservation and Land Management. 2003. tr. 211. ISBN 0 7307 5534 7. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2015.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • “Marine Life Society of South Australia - Newslatter”. 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2008.
  • Pink Lake Hydrological Study Group (W.A.) (1986) The report on investigations into the hydrology & use of Pink Lake at Esperance by the Pink Lake Hydrological Study Group to the Minister for Lands & the Esperance Shire Council. Perth: W.A. Dept. of Conservation and Environment. Bulletin (Western Australia. Dept. of Conservation and Environment); no. 262. ISBN 0-7309-0595-0 (pbk.)

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]