Hội quán Văn hóa 25 tháng 4

Hội quán Văn hoá 25 tháng 4
Hội quán Văn hoá 25 tháng 4 được chuẩn bị cho đại hội lần thứ 7 của Đảng Lao động Triều Tiên
Map
Tên cũHội quán Văn hoá 8 tháng 2
Hội trường Quốc hội
Vị tríĐường Pipha, Quận Moranbong, Bình Nhưỡng,  Bắc Triều Tiên[1][2]
Tọa độ39°3′29″B 125°44′57″Đ / 39,05806°B 125,74917°Đ / 39.05806; 125.74917
Công trình xây dựng
Khởi côngtháng 4 năm 1974
Khánh thành7 tháng 10 năm 1975 (1975-10-07)
Hội quán Văn hóa 25 tháng 4
Chosŏn'gŭl
Hancha
Romaja quốc ngữ4.25 munhwa hoegwan
McCune–Reischauer4.25 munhwa hoegwan

Hội quán văn hoá 25 tháng 4 là một hội quán nằm ở thủ đô Bình Nhưỡng, Bắc Triều Tiên.[1] Nó được xây dựng vào năm 1974-1975 để cung cấp một địa điểm cho giáo dục quân sự, và ban đầu nó được gọi với cái tên là Hội quán Văn hoá 8 tháng 2. Nó nằm trên đường Pipha ở quận Moranbong của thủ đô Bình Nhưỡng. Toà nhà với hàng cột theo phong cách cổ điển,[4] được coi là một trong những ví dụ điển hình nhất về tượng đài xã hội chủ nghĩa những năm 1970 ở Bình Nhưỡng,[5] và vì lí do đó nên ở Bắc Triều Tiên, toà nhà còn lại là Nhà hát Nghệ thuật Mansudae về mặt hình ảnh.[6]

Đây là địa điểm diễn ra nhiều sự kiện lịch sử, từ cả đại hội lần thứ 6 và lần thứ 7 của Đảng Lao động Triều Tiên, đến cuộc gặp lịch sử của Kim Jong-il với tổng thống Hàn Quốc, Roh Moo-hyun, vào năm 2007.[7]

Xây dựng[sửa | sửa mã nguồn]

12,4 hécta (31 mẫu Anh) đã được giải tỏa và việc xây dựng nhà hát đã được bắt đầu vào tháng 4 năm 1974.[2] Toà nhà này rộng 105 mét (344 ft) ở mặt trước, có chiều sâu là 176 mét (577 ft), và có độ cao gần 50 mét (164 ft). Nó bao gồm hai rạp chiếu phim lớn với 6.000 chỗ ngồi và 1.100 chỗ ngồi với một rạp chiếu phim 600 chỗ ngồi.[1] Hơn 80.000 mét vuông (861.113 foot vuông) không gian sàn cung cấp cho khoảng 600 phòng khác hỗ trợ các rạp hát. Toà nhà mở cửa vào ngày 7 tháng 10 năm 1975.

Tên[sửa | sửa mã nguồn]

Toà nhà theo đề xuất ban đầu được đặt tên là Hội quán Văn hoá 8 tháng 2 sau ngày thành lập Quân đội Nhân dân Triều Tiên (KPA). Nó được mở cửa dưới tên này và Đại hội lần thứ 6 của Đảng Lao động Triều Tiên được tổ chức ở đó vào ngày 10 đến ngày 14 tháng 10 năm 1980 dưới tên này.[8] Sau đại hội, toà nhà đôi khi còn được gọi là Hội trường Quốc hội;[9] tuy nhiên, sau đó tên được đổi thành Hội quán Văn hoá 25 tháng 4, ngày thành lập của quân đội kháng chiến chống Nhật,[10] để phản ánh mối liên hệ lịch sử và tính liên tục, với Quân đội Nhân dân Triều Tiên.[11] Ngày Thành lập Quân đội Nhân dân Triều Tiên đã được thay đổi trước đó, vào năm 1978, từ ngày 9 tháng 2 sang ngày 25 tháng 4.

Sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]

Hội quán Văn hoá 25 tháng 4 là trụ sở của Văn phòng Sáng tác Văn hoá và Nghệ thuật ngày 25 tháng 4,[12] chịu trách nhiệm tổ chức các sự kiện văn hoá lớn của Quân đội Nhân dân Triều Tiên, bao gồm các hội nghị quốc tế và tang lễ cấp nhà nước. Ngoài các cuộc họp để giáo dục quân sự, khen thưởng và đoàn kết,[4][13] và các buổi lễ chính thức của nhà nước và các cuộc họp của đảng như Đại hội Đảng Lao động Triều Tiên lần thứ 6 và lần thứ 7 của Đảng Lao động Triều Tiên,[14][15] các nhà hát ở Hội quán Văn hoá 25 tháng 4 được sử dụng cho các sự kiện văn hoá như các buổi biểu diễn của Quân đội Nhân dân Triều Tiên,[2] hoặc ban nhạc Moranbong.[16]

Toà nhà hiếm khi thấy khách du lịch ghé thăm.[4]

Trong văn hoá Bắc Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Dịch vụ bưu chính của Bắc Triều Tiên đã phát hành một con tem vào ngày 7 tháng 10 năm 1976, chủ yếu để sử dụng trong nước, mô tả toà nhà mới.[2][17]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú và tài liệu tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c “Pyongyang: Theatres”. Official webpage of the DPR of Korea. Korean Friendship Association (KFA). 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 4 năm 2013.
  2. ^ a b c d Corfield, Justin (2014). Historical Dictionary of Pyongyang. London: Anthem Press. tr. 7. ISBN 978-1-78308-341-1.
  3. ^ 중국-김준호 (ngày 25 tháng 4 năm 2014). 평양 4.25 문화회관에 큰 화재 발생. Radio Free Asia (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2016.
  4. ^ a b c Willoughby, Robert (2014). North Korea: The Bradt Travel Guide . Bradt Travel Guides. tr. 135. ISBN 978-1-84162-476-1.
  5. ^ “The Architecture of North Korea”. Koryo Tours. ngày 12 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2016.
  6. ^ “North Korea Architecture Tour 2014”. How to Go to North Korea. Rebel Tribe. 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2014.
  7. ^ “Theatres, Pyongyang, North Korea”. koreakonsult.com. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2016.
  8. ^ Kim, Nam-Sik (1982). “North Korea's Power Structure and Foreign Relations: An Analysis of the Sixth Congress of the KWP”. The Journal of East Asian Affairs. 2 (1): 125–151. JSTOR 23253510.
  9. ^ “Documents - Bob Hartley Collection”. The Strand Archive. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2016.
  10. ^ Official North Korean sources, such as Hwan Ju Pang (1987). Korean Review. Pyongyang: Foreign Languages Publishing House. tr. 39. OCLC 21036357., state that the Anti-Japanese People's Guerrilla Army was founded on ngày 25 tháng 4 năm 1932 by Kim Il Sung. Kim was at that time commanding a small unit in the Chinese Communist Northeast Anti-Japanese United Army under General Yang Jingyu. “Kim Il Sung's Life to the Korean War”. Post War North Korea. Korean History Info. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2012.; Minnich, James M. (2005). The North Korean People's Army: Origins and Current Tactics. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1-59114-525-7.
  11. ^ “N. Korea Displays Ballistic Missiles During Military Parade, Some for the first time”. Marinekslee. tháng 6 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2016. which cites: "Puk chuyo’gi’nyŏm’il 5-10 nyŏnmada taegyumo yŏlpyŏngsik" (North Korea Holds Large Military Parades for Anniversaries Every 5–10 years), Chosŏn Ilbo, ngày 25 tháng 4 năm 2007; Chang Jun-ik, "Pukhan Inmingundaesa" (History of the North Korean Military), Seoul, Sŏmundang, 1991, pp. 19–88; Kim Kwang-su (2006). “Chapter Two: 조선 인민군 의 형성 과 발전, 1945–1990 [Chosŏninmingun'ŭi ch'angsŏlgwa palchŏn, 1945–1990; Foundation and Development of the Korean People's Army, 1945–1990]”. 북한 의 군사 [The Military of North Korea]. Seoul: Kyung Inmoonhwasa (Kyŏngin Munhwasa). tr. 63–78. ISBN 978-89-499-0439-9.
  12. ^ The April 25th Culture and Art Composition Office has also been known variously as the April 25th Cultural Centre, April 25th Hall, April 25th House of Culture, 8 February Hall, 8 February House of Culture, and 8 February Group. Bermedez, Joseph S. (2003). Shield of the Great Leader: The Armed Forces of North Korea. Sydney, New South Wales: Allen & Unwin. tr. 32. ISBN 978-1-74115-007-0.
  13. ^ “Servicepersons Vow to Be Faithful to Leadership of Kim Jong Un”. KCNA Watch. ngày 18 tháng 7 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2016.
  14. ^ Talmadge, Eric (ngày 3 tháng 5 năm 2016). “Details of N. Korea party congress secret, but goals clear”. Associated Press. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2016.
  15. ^ Pearson, James (ngày 5 tháng 5 năm 2016). “Finishing touches in North Korea capital ahead of rare party meeting”. Swiss Broadcasting Corporation (SBC) from Reuters. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2016.
  16. ^ Paton, Callum (ngày 10 tháng 12 năm 2015). “North Korea: Kim Jong Un's hand-picked girl band Moranbong hope to make it big in China”. International Business Times. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2016.
  17. ^ Scott #1532 - Scott (2008) "Korea, Democratic People’s Republic" Scott 2009 Standard Postage Stamp Catalogue Volume 4 (165th edition) Scott Publishing Co., Sidney, Ohio, page 276. ISBN 978-0-89487-420-8

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Pyongyang. Pyongyang: Foreign Languages Publishing House. 1985. tr. 204–209. OCLC 477352411.
  • Hwan Ju Pang (1987). Korean Review. Pyongyang: Foreign Languages Publishing House. tr. 225. OCLC 21036357.
  • Ndjana, Hubert Mono (1988). Korea, a mysterious country in the East. Pyongyang: Foreign Languages Publishing House. tr. 25–26. OCLC 20635290.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]