HMS Garth (L20)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục HMS Garth (L20), năm 1941
Lịch sử
Anh Quốc
Tên gọi HMS Garth (L20)
Đặt hàng 21 tháng 3 năm 1939
Xưởng đóng tàu John Brown & Company, Clydebank
Đặt lườn 8 tháng 6 năm 1939
Hạ thủy 14 tháng 2 năm 1940
Nhập biên chế 8 tháng 6 năm 1940
Số phận Bán để tháo dỡ, tháng 8 năm 1958
Đặc điểm khái quát[1]
Lớp tàu Lớp Hunt Kiểu I
Trọng tải choán nước
  • 1.000 tấn Anh (1.020 t) (tiêu chuẩn)
  • 1.340 tấn Anh (1.360 t) (đầy tải)
Chiều dài 85 m (278 ft 10 in) (chung)
Sườn ngang 8,8 m (28 ft 10 in)
Mớn nước 3,27 m (10 ft 9 in)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;
  • 2 × nồi hơi ống nước 3 nồi Admiralty;
  • 2 × trục;
  • công suất 19.000 shp (14.170 kW)
Tốc độ 27,5 hải lý trên giờ (50,9 km/h)
Tầm xa
  • 3.500 nmi (6.480 km) ở tốc độ 15 hải lý trên giờ (28 km/h);
  • 1.000 nmi (2.000 km) ở tốc độ 26 hải lý trên giờ (48 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 146
Vũ khí

HMS Garth (L20) là một tàu khu trục hộ tống lớp Hunt Kiểu I của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được hạ thủy và đưa ra phục vụ vào năm 1940. Nó đã hoạt động cho đến hết Chiến tranh Thế giới thứ hai, cho đến khi xuất biên chế năm 1945 và bị bán để tháo dỡ năm 1958.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Cleveland Garth được đặt hàng cho hãng John Brown & Company tại River Clyde, trong Chương trình Chế tạo 1939 và được đặt lườn vào ngày 8 tháng 6 năm 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 12 năm 1939 và nhập biên chế vào ngày 8 tháng 6 năm 1940. Con tàu được cộng đồng dân cư Wokingham tại Berkshire đỡ đầu trong khuôn khổ cuộc vận động gây quỹ Tuần lễ Tàu chiến năm 1942.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi đưa vào hoạt động, Garth đã phục vụ tại vùng biển nhà, bao gồm khu vực tiếp cận Tây Bắceo biển Manche. Nó đã hộ tống cho tàu monitor Erebus (I02) trong cuộc triệt thoái khỏi Dunkirk, và vào tháng 11 năm 1940 đã cùng tàu khu trục Campbell (D60) đánh chìm tàu phóng lôi E-Boat S38 của Đức Quốc xã ngoài khơi Southwold, là chiếc đầu tiên bị đánh chìm trong các cuộc tấn công vào các đoàn tàu vận tải ven biển.

Các sĩ quan Hải quân Anh trên HMS Garth cùng lá cờ của chiếc E-boat chiếm được tại Sheerness, 21 tháng 10 năm 1944.

Trong những năm 1941-1942, Garth tiếp tục nhiệm vụ hộ tống để bảo vệ vận tải ven biển dọc theo bờ Đông nước Anh. Vào năm 1942, nó được cử vào thành phần hỗ trợ cho Chiến dịch Jubilee, cuộc Đột kích Dieppe vào tháng 8, rồi sau đó tiếp tục hoạt động tại khu vực eo biển MancheBắc Hải. Nó đã húc và đánh chìm chiếc E-boat S73 ngoài khơi vào tháng 2 năm 1943. Sang tháng 4 năm 1944, con tàu lại được cử tham gia hỗ trợ cho Chiến dịch Overlord, cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên Normandy. Đến tháng 10, nó bắn hải pháo hỗ trợ cho cuộc tấn công lên Walcheren, vốn là cứ điểm phòng thủ cho vũng biển Scheldt và cảng Antwerp. Sau đó nó quay trở lại hoạt động hộ tống vận tải và tuần tra tại Bắc Hải.

Từ tháng 8 năm 1945, Garth được sử dụng như một tàu nghỉ ngơi tại Chatham,[2] rồi sau đó được đưa về thành phần dự bị, và được bán cho hãng Thomas W. Ward Ltd để tháo dỡ. Nó được kéo đến Barrow để tháo dỡ vào ngày 25 tháng 8 năm 1958.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Lenton 1970, tr. 87
  2. ^ Critchley 1982, tr. 26

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN 978-1-86176-281-8. OCLC 67375475.
  • Critchley, Mike (1982). British Warships Since 1945: Part 3: Destroyers. Liskeard, UK: Maritime Books. ISBN 0-9506323-9-2.
  • English, John (1987). The Hunts: A history of the design, development and careers of the 86 destroyers of this class built for the Royal and Allied Navies during World War II. World Ship Society. ISBN 0-905617-44-4.
  • Lenton, H.T. (1970). Navies of the Second World War: British Fleet & Escort Destroyers: Volume Two. London: Macdonald & Co. ISBN 0-356-03122-5.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]