Hatsuse (thiết giáp hạm Nhật)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thiết giáp hạm Nhật Bản Hatsuse vào năm 1904
Lịch sử
Nhật Bản
Tên gọi Hatsuse
Đặt hàng 1897
Xưởng đóng tàu Armstrong Whitworth
Đặt lườn 10 tháng 1 năm 1898
Hạ thủy 27 tháng 6 năm 1899
Nhập biên chế 18 tháng 1 năm 1901
Xóa đăng bạ 21 tháng 5 năm 1905
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp Shikishima
Trọng tải choán nước 15.255 tấn (tiêu chuẩn)
Chiều dài
  • 126,5 mét (415,03 ft) (mực nước)
  • 134 mét (439,63 ft) (chung)
Sườn ngang 23,4 mét (76,77 ft)
Mớn nước 8,29 mét (27,20 ft)
Động cơ đẩy
  • 2 × động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc
  • 25 × nồi hơi Belleville
  • 2 × trục
  • công suất 14.500 mã lực (10,8 MW)
Tốc độ 18 hải lý trên giờ (33 km/h)
Tầm xa 7.000 hải lý (13.000 km) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)
Tầm hoạt động 1.722 tấn than
Thủy thủ đoàn tối đa 836
Vũ khí
Bọc giáp
  • đai giáp chính: 100-229 mm (4-9 inch)
  • sàn tàu: 63-100 mm (2,5-4 inch)
  • tháp pháo: 50-254 mm (2-10 inch)
  • ụ pháo: 200-360 mm (8-14 inch)
  • tháp chỉ huy: 75-356 mm (3-14 inch)

Hatsuse (tiếng Nhật: 初瀬) là một thiết giáp hạm thế hệ tiền-dreadnought thuộc lớp thiết giáp hạm Shikishima của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20, và là một trong số sáu thiết giáp hạm (Fuji, Yashima, Hatsuse, Shikishima, AsahiMikasa) đã hình thành nên hàng thiết giáp hạm chính của Nhật Bản trong cuộc Chiến tranh Nga-Nhật những năm 1904-1905. Hatsuse có một cuộc đời phục vụ ngắn ngủi khi bị đánh chìm vào năm 1904.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếp theo sau cuộc Chiến tranh Thanh-Nhật (1894-1895) và bị buộc phải hoàn trả bán đảo Liêu Đông cho Trung Quốc dưới áp lực của Đế quốc Nga, Nhật Bản bắt đầu xây dựng sức mạnh quân sự để chuẩn bị cho những cuộc đối đầu trong tương lai. Đối với Hải quân, họ bắt đầu một chương trình mở rộng hải quân mười năm bằng việc đóng sáu thiết giáp hạm và sáu tàu tuần dương bọc thép làm hạt nhân.

Hatsuse đang được chế tạo 3 tháng sau khi đặt lườn
Hatsuse hoàn tất việc chế tạo và sẵn sàng để hạ thủy

được đặt hàng tại hãng Armstrong Whitworth tại xưởng đóng tàu Elswick tại Anh Quốc vào năm 1897. Nó được thiết kế bởi Phillip Watts, và về căn bản là một phiên bản cải tiến dựa trên lớp thiết giáp hạm Majestic của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Được đặt lườn vào ngày 10 tháng 1 năm 1898, nó được hạ thủy vào ngày 27 tháng 6 năm 1899 và hoàn tất vào ngày 18 tháng 1 năm 1901. Trước khi quay trở về Nhật Bản, nó đại diện cho Nhật hoàng Minh Trị tại lễ tang của Nữ hoàng Victoria.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Khi hạm đội Nhật Bản được tái tổ chức vào ngày 28 tháng 12 năm 1903, Hatsuse trở thành soái hạm của Hải đội 1, Phân hạm đội 1 của Hạm đội 1 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, dưới quyền Chuẩn Đô đốc Nashiba Tokioki. Sau khi Chiến tranh Nga-Nhật nổ ra, người Nhật đã vây hãm Hải đội Viễn Đông Nga trong Lữ Thuận Khẩu (Port Arthur). Vào ngày 14 tháng 5 năm 1904, Đô đốc Nashiba ra khơi cùng với các thiết giáp hạm Hatsuse (soái hạm), ShikishimaYashima, tàu tuần dương Kasagi và tàu phối thuộc Tatsuta để thay phiên cho lực lượng phong tỏa Nhật Bản. Sáng ngày 15 tháng 5, lực lượng Nhật Bản đi đến Encounter Rock và tiếp tục hành trình hướng Tây Bắc cho đến cách 15 dặm ngoài khơi cảng Lữ Thuận. Tại đây Nashiba chuyển sang tuần tra theo hướng Đông sang Bắc cắt ngang lối ra vào cảng. Hướng đi này đã đưa hạm đội vào ngay một bãi mìn do tàu rải mìn Nga Amur thả trước đó.

Lúc 10 giờ 50 phút, Hatsuse trúng phải một quả ngư lôi và bắt đầu bị nghiêng khi khoang động cơ lái bị ngập nước và ngăn động cơ bên mạn trái trở nên vô dụng. Chỉ vài phút sau, Yashima cũng trúng phải mìn và bị chìm sau đó. Đến 11 giờ 30 phút, Kasagi tiếp cận Hatsuse để trợ giúp, nhưng chiếc thiết giáp hạm đã bị nghiêng 4º. Một dây cáp được chuyển sang từ Kasagi, và Hatsuse bắt đầu được kéo khi nó trúng phải một quả mìn khác. Các ống khói và cột ăn-ten chính bị gảy, sàn trước bị bắn tung lên không, và nó chìm chỉ trong vòng một phút rưỡi. TatsutaKasagi tìm cách cứu được Đô đốc Nashiba và thuyền trưởng Đại tá Nakao cùng 21 sĩ quan và 313 thủy thủ; tuy nhiên, 38 sĩ quan và 458 thủy thủ đã chìm theo con tàu ở tọa độ 38°37′B 121°20′Đ / 38,617°B 121,333°Đ / 38.617; 121.333.

Hatsuse được chính thức rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 21 tháng 5 năm 1905.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Andidora, Ronald (2000). Iron Admirals: Naval Leadership in the Twentieth Century. Westport, Conn.: Greenwood Press. ISBN 0313312664.
  • Brown, D. K. (1999). Warrior to Dreadnought, Warship Development 1860–1906. Annapolis, Md.: Naval Institute Press. ISBN 1840675292.
  • Evans, David (1979). Kaigun: Strategy, Tactics, and Technology in the Imperial Japanese Navy, 1887–1941. Annapolis, Md.: Naval Institute Press. ISBN 0870211927.
  • Hoare, J. E. (1999). Britain and Japan, Biographical Portraits, Volume III. Richmond, Surrey: Japan Library. ISBN 1873410891.
  • Howarth, Stephen (1983). The Fighting Ships of the Rising Sun: The Drama of the Imperial Japanese Navy, 1895–1945. New York: Atheneum. ISBN 0689114028.
  • Jane, Fred T. (1904). The Imperial Japanese Navy. London, Calcutta: Thacker, Spink & Co. OCLC 1261639.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945. Annapolis, Md.: Naval Institute Press. ISBN 087021893X.
  • Schencking, J. Charles (2005). Making Waves: Politics, Propaganda, and the Emergence of the Imperial Japanese Navy, 1868–1922. Stanford, Calif.: Stanford University Press. ISBN 0804749779.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]