Hemiglyphidodon plagiometopon

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hemiglyphidodon plagiometopon
Cá trưởng thành
Cá con
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Phân họ (subfamilia)Pomacentrinae
Tông (tribus)Hemiglyphidodontini
Chi (genus)Hemiglyphidodon
Bleeker, 1877
Loài (species)H. plagiometopon
Danh pháp hai phần
Hemiglyphidodon plagiometopon
(Bleeker, 1852)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Glyphisodon plagiometopon Bleeker, 1852
  • Glyphisodon batjanensis Bleeker, 1855
  • Abudefduf melanopselion Fowler, 1918

Hemiglyphidodon plagiometopon là loài cá biển duy nhất thuộc chi Hemiglyphidodon (phân họ Pomacentrinae) trong họ Cá thia.[1] Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1852.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền tố hēmi trong từ hemiglyphidodon bắt nguồn từ ἡμι trong tiếng Hy Lạp cổ đại mang nghĩa là "một nửa", vì chi này được đề xuất là một phân chi của Glyphidodon (đồng nghĩa của Abudefduf).[2]

Từ định danh plagiometopon được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại, plágios (πλάγιος, "xiên, nghiêng") và métōpon (μέτωπον, "trán"), vì loài cá này được mô tả là "rất xiên ở nét mặt bên".[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

Từ tỉnh Phuket (Thái Lan), phạm vi của H. plagiometopon trải dài đến vùng biển các nước Đông Nam ÁThái Bình Dương, xa nhất ở phía đông đến New Britainquần đảo Solomon, ngược lên phía bắc đến Trung Quốc,[3] giới hạn phía nam đến Tây Úc và các đảo san hô ngoài khơi, cũng như một phần phía bắc rạn san hô Great Barrier.[4]

Việt Nam, H. plagiometopon được ghi nhận tại quần đảo An Thới (Phú Quốc),[5] Nha Trangvịnh Vân Phong (Khánh Hòa),[6] Phú Yên,[7] Bình Thuận,[8] Ninh Thuận[9], cù lao Chàm (Quảng Nam),[10] quần đảo Cát Bà (Quảng Ninh), Côn Đảo cũng như hai quần đảo Trường Saquần đảo Hoàng Sa.[11]

H. plagiometopon sống tập trung gần các rạn san hô ven bờ (thường là san hô nhánh) và trong đầm phá ở độ sâu đến tối thiểu là 20 m.[3]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở H. plagiometopon là 22 cm.[12] H. plagiometopon có màu nâu, sẫm màu hơn ở thân sau và các vây. Vùng đầu có thể có màu nâu cam nhạt. Cá con có màu xanh xám ở thân trước và đầu với nhiều chấm màu xanh lam ánh kim (tập trung dày đặc ở đầu), chuyển thành vàng ở toàn bộ phần thân còn lại. Vây lưng có một đốm đen lớn ở phía sau.[4][13]

Số gai ở vây lưng là 13; Số tia vây ở vây lưng là từ 14–15; Số gai ở vây hậu môn là 2; Số tia vây ở vây hậu môn là từ 14–15; Số tia vây ở vây ngực là từ 16–17; Số gai ở vây bụng là 1; Số tia vây ở vây bụng là 5; Số lược mang là từ 65–85.[13] Đây là loài duy nhất có số lược mang nhiều nhất trong họ (>65 ở vòm mang thứ nhất của H. plagiometopon so với <40 ở các loài cá thia còn lại).[1]

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của H. plagiometopon chủ yếu là tảo, nhưng cũng bao gồm một ít các loài giun nhiều tơ, động vật giáp xáctrùng lỗ.[14] H. plagiometopon ăn tảo trong khu vực lãnh thổ của nó, mặc dù có bằng chứng cho thấy rằng, chúng ăn các vụn hữu cơ tích tụ trên tảo chứ không phải bản thân tảo.[1]

Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng bám chặt vào nền tổ.[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Tang, Kevin L.; Stiassny, Melanie L. J.; Mayden, Richard L.; DeSalle, Robert (2021). “Systematics of Damselfishes”. Ichthyology & Herpetology. 109 (1): 258–318. doi:10.1643/i2020105. ISSN 2766-1512.
  2. ^ a b Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series Ovalentaria (Incertae sedis): Family Pomacentridae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2021.[liên kết hỏng]
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Hemiglyphidodon plagiometopon trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  4. ^ a b Dianne J. Bray. “Lagoon Damsel, Hemiglyphidodon plagiometopon (Bleeker 1852)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2021.
  5. ^ Nguyễn Hữu Phụng; Nguyễn Văn Long (1996). “Một số kết quả nghiên cứu cá rạn san hô ở An Thới (Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang)” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 7: 84–93.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ Nguyễn Văn Long (2009). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ Nam Trung Bộ”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển T9. 3: 38–66.
  7. ^ Nguyễn Văn Long (2013). “Nguồn lợi cá rạn san hô vùng biển ven bờ Phú Yên”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 13 (1): 31–40. ISSN 1859-3097.
  8. ^ Mai Xuân Đạt (2019). “Cá rạn san hô trong các bãi ngầm và đảo đá ở vùng biển ngoài khơi tỉnh Bình Thuận”. Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 19 (4A): 259–271. doi:10.15625/1859-3097/19/4A/14590. ISSN 1859-3097.[liên kết hỏng]
  9. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  10. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  11. ^ Rainer Froese; Jeremiah Glenn Jansalin (biên tập). Hemiglyphidodon plagiometopon (Bleeker, 1852)”. FishBase. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2021.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  12. ^ Allen, Gerald R. (1999). Marine Fishes of South-East Asia: A Field Guide for Anglers and Divers. tr. 160. ISBN 978-1462917075.
  13. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 270. ISBN 978-0824818951.
  14. ^ Wilson, S.; Bellwood, D. R. (1997). “Cryptic dietary components of territorial damselfishes (Pomacentridae, Labroidei)” (PDF). Marine Ecology Progress Series. 153: 299–310. doi:10.3354/meps153299. ISSN 0171-8630.