Huỳnh Công Thành

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Huỳnh Công Thành
Chức vụ
Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng
Tiểu khu Bình Tuy
Nhiệm kỳ1/1972 – 2/1973
Cấp bậc-Đại tá
-Chuẩn tướng
(truy thăng 2/1973)
Tiền nhiệm-Đại tá Trần Vãng Khoái
Kế nhiệm-Trung tá Nguyễn Văn Sĩ
Vị tríQuân khu 3

Tham mưu trưởng Quân đoàn I
Nhiệm kỳ11/1965 – 1/1972
Cấp bậc-Đại tá (11/1965)
Vị tríVùng 1 chiến thuật
Tư lệnh Quân đoàn-Nguyễn Chánh Thi
-Nguyễn Văn Chuân
-Tôn Thất Đính
-Huỳnh Văn Cao
-Hoàng Xuân Lãm

Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Bộ binh
Nhiệm kỳ11/1963 – 11/1965
Cấp bậc-Trung tá (11/1963)
-Đại tá
Vị tríVùng 1 chiến thuật
Tư lệnh Sư đoàn-Trần Thanh Phong
-Nguyễn Chánh Thi
-Nguyễn Văn Chuân
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2
thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh
Nhiệm kỳ10/1959 – 11/1963
Cấp bậc-Thiếu tá (10/1959)
Vị tríVùng 1 chiến thuật
Tư lệnh Sư đoàn-Tôn Thất Xứng
-Nguyễn Đức Thắng
-Nguyễn Văn Thiệu
-Đỗ Cao Trí
Thông tin chung
Quốc tịch Việt Nam Cộng hòa
SinhTháng 2 năm 1930
Châu Đốc, Việt Nam
Mất24 tháng 3 năm 1973 (43 tuổi)
Bình Tuy, Việt Nam
Nguyên nhân mấtTử trận
Nghề nghiệpQuân nhân
Dân tộcKinh
Học vấnTú tài bán phần
Trường lớp-Trường Trung học Pháp ngữ Cần Thơ
-Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức
Quê quánNam Kỳ
Binh nghiệp
Thuộc Quân lực VNCH
Phục vụ Việt Nam Cộng hòa
Năm tại ngũ1951-1973
Cấp bậc Chuẩn tướng
Đơn vị Sư đoàn 1 Bộ binh
Quân đoàn I và QK 1
Chỉ huy Quân đội Quốc gia
Quân lực VNCH
Tham chiếnChiến tranh Việt Nam
Khen thưởng B.quốc H.chương III[1]

Huỳnh Công Thành (1930-1973), nguyên là sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất thân từ khóa đầu tiên ở trường Sĩ quan Trừ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam mở ra ở miền Nam với mục đích đào tạo sĩ quan người Việt phục vụ cho Quân đội Liên hiệp Pháp. Ông đã tuần tự giữ từ chức vụ Trung đội trưởng cho đến Tham mưu trưởng cấp Sư đoàn Bộ binh. Sau chuyển sang lĩnh vực Hành chính Quân sự. Năm 1973, ông tử trận, được truy thăng cấp bậc Chuẩn tướng.

Tiểu sử & Binh nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Ông sinh vào tháng 2 năm 1930 trong một gia đình điền chủ giàu có tại Châu Đốc, miền Tây Nam phần Việt Nam. Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại Cần Thơ với văn bằng Tú tài bán phần (Part I).

Quân đội Quốc gia Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Giữa năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 50/121.193. Theo học khóa 1 Lê Văn Duyệt tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, khai giảng ngày 1 tháng 10 năm 1951. Ngày 1 tháng 6 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy,[2] được chuyển đến một Tiểu đoàn Bộ binh Việt Nam (trong hệ thống Quân đội Liên hiệp Pháp) giữ chức vụ Trung đội trưởng. Tháng 8 năm 1954, sau Hiệp định Genève (20 tháng 7), ông được thăng cấp Trung úy giữ chức vụ Đại đội trưởng.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 26 tháng 10 năm 1956, một thời gian ngắn sau khi từ Quân đội Quốc gia chuyển sang phục vụ cơ cấu mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được thăng cấp Đại úy giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Bộ binh. Ngày Quốc khánh Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2 thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh.

Thời gian ông chỉ huy Trung đoàn 2, lần lượt trải qua các vị Tư lệnh Sư đoàn: Đại tá Tôn Thất Xứng, Đại tá Nguyễn Đức Thắng, Đại tá Nguyễn Văn Thiệu và Thiếu tướng Đỗ Cao Trí.

Tháng 11 năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm (ngày 1 tháng 11). Ngày 4 tháng 11 ông được thăng cấp Trung tá và được cử làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 1 Bộ binh, trải qua các vị Tư lệnh Sư đoàn: Đại tá Trần Thanh Phong, Chuẩn tướng Nguyễn Chánh Thi và Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân.

Ngày Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1965, ông được thăng cấp Đại tá chuyển về Bộ tư lệnh Quân đoàn I giữ chức vụ Tham mưu trưởng, lần lượt dưới quyền các vị Tư lệnh Quân đoàn: Thiếu tướng Nguyễn Chánh Thi (11/1964-3/1966), Thiếu tướng Nguyễn Văn Chuân (3/1966-4/1966), Trung tướng Tôn Thất Đính (4/1966-5/1966), Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao (15/5-30/5/1966), Trung tướng Hoàng Xuân Lãm (6/1966-5/1972).

Tháng giêng năm 1972, biệt phái sang lĩnh vực Hành chính, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Tuy thay thế Đại tá Trần Vãng Khoái.[3]

Tử trận[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 3 tháng 2 năm 1973, ông bị trúng đạn trọng thương do hoả tiễn phòng không của đối phương bắn trúng khi đang bay trực thăng thị sát vùng Tánh Linh, một Chi khu (Quận) trực thuộc tỉnh. Sau hơn một tháng điều trị ở Tổng y viện Cộng hòa do vết thương quá nặng nên ngày 24 tháng 3 ông từ trần. Hưởng dương 43 tuổi.

Ông được truy thăng cấp bậc Chuẩn tướng và truy tặng Đệ Tam đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.

Tang lễ được cử hành theo lễ nghi Quân cách của một tướng lĩnh.

Ngay sau đó Trung tá Nguyễn Văn Sĩ đương nhiệm Tiểu khu phó kiêm Tham mưu trưởng Tiểu khu được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Tuy.

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Bảo quốc Huân chương đệ tam đẳng.
  2. ^ Tốt nghiệp khóa 1 Võ khoa Thủ Đức, sau này lên tướng còn có Các Trung tướng Trần Văn Minh, Đồng Văn Khuyên. Các Thiếu tướng Nguyễn Khắc Bình, Võ Xuân Lành, Nguyễn Ngọc Loan và cố Thiếu tướng Phan Đình Soạn. Các Chuẩn tướng Huỳnh Bá Tính, Phạm Ngọc Sang, Trương Bảy và cố Chẩn tướng Huỳnh Công Thành.
  3. ^ Đại tá Trần Vãng Khoái sinh năm 1922 tại Hà Nội, tốt nghiệp trường Võ bị Địa phương Bắc Việt. Sau cùng là thành viên trong Nha Tổng thanh tra Quân lực tại Bộ Tổng Tham mưu

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê đình Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa.