Jessi (rapper)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Ho.
Jessi
Jessi vào năm 2017.
SinhJessica Ho
17 tháng 12, 1988 (35 tuổi)
Queens, Thành phố New York, Hoa Kỳ
Tên khác
  • Jessica H.O
  • Ho Hyun-joo
Học vịKorea Kent Foreign School
Nghề nghiệp
Sự nghiệp âm nhạc
Nguyên quán Hàn Quốc
Thể loại
Nhạc cụVocals
Năm hoạt động2005–2009
2014–nay
Hãng đĩa
Hợp tác với
  • Uptown
  • Jay Park
  • Lucky J
  • Sister's Slam Dunk
  • Refund Sisters
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
Hanja
Romaja quốc ngữHo Hyeon-ju
McCune–ReischauerHo Hyŏn-ju
Hán-ViệtHồ Huyền Châu
Nghệ danh
Hangul
Romaja quốc ngữJesi
McCune–ReischauerJeshi

Jessica Ho (sinh ngày 17 tháng 12 năm 1988), thường được biết đến nhiều hơn với nghệ danh Jessi, là một nữ rapper, ca sĩnhạc sĩ người Mỹ gốc Hàn hoạt động tại Hàn Quốc. Cô được sinh ra ở New York, lớn lên ở New Jersey và chuyển đến Hàn Quốc khi cô 15 tuổi.[2]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Jessi sinh ngày 17 tháng 12, 1988 (35 tuổi) tại New York, Hoa Kỳ.

Jessi từng học tại trường trung học cùng với Tiffany Young, Jessica Jung và ca sĩ solo Stephanie. Jessi thông qua buổi thử giọng của SM Entertainment cùng với những người bạn học. Tuy nhiên, cô đã không chọn gia nhập công ty do sự khác biệt về phong cách âm nhạc.

Năm 2003, khi 15 tuổi, cô tham gia thử giọng cho Doremi media và chuyển đến Hàn Quốc ngay sau đó.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

2005: Album đĩa đơn đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Jessi phát hành album đĩa đơn đầu tiên "Get Up" vào năm 2005 và được đưa vào album "Testimony" của nhóm nhạc hip hop Uptown vào năm 2006.  Đĩa đơn thứ hai của cô, "The Rebirth", được phát hành vào năm 2009. Sau đợt phát hành này, cô đã từ bỏ âm nhạc, rời Hàn Quốc để trở lại Mỹ.

2014: Thành viên Lucky J[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2014, sau 5 năm gián đoạn, Jessi trở lại như một thành viên của Lucky J với rapper J'Kyun và ca sĩ J-Yo. Lucky J ra mắt với single "Can You Hear Me" dưới YMC Entertainment vào tháng 7. Vào ngày 31, Jessi hợp tác Ailee và Hyorin (Sistar). Trên các chương trình âm nhạc của đài MBC. Bộ ba biểu diễn bài hát hit Bang Bang, với Jessi là rapper chính.

2015: Unpretty Rapstar, Đĩa đơn rap đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ tháng 1 đến tháng 5 năm 2015, Jessi là một phần của chương trình Unpretty Rapstar, một phần phụ của Show Me The Money. Unpretty Rapstar là một chương trình sống còn giữa những rapper nữ, nơi thí sinh tranh tài để có cơ hội được tham gia bài nhạc trong một album tổng hợp. Jessi được chọn là người chiến thắng vị trí thứ hai của chương trình, bởi khán giả bỏ phiếu. Sau khi cô xuất hiện trên Unpretty Rapstar, Jessi được tham gia vào "Who's Your Mama?" của JYP.

Cô phát hành đĩa đơn rap solo đầu tiên "Sseunni", vào ngày 15. Cô đã biểu diễn tại Nhà hát Belasco ở Los Angeles, với bộ đôi hiphop Mighty Mouth. Khi mùa thứ hai của Unpretty Rapstar phát sóng, Jessi xuất hiện trong nhiều tập như một giám khảo. Cô và Cheetah, người chiến thắng của mùa giải trước, đã được tham gia Unpretty Rapstar 2 bài hát được sản xuất bởi Verbal Jint. Trong tháng 12 năm 2015, Jessi biểu diễn ca khúc rap của cô "Sseunni" tại Mnet Asian Music Awards.

2019–nay: P Nation[sửa | sửa mã nguồn]

Jessi vào năm 2019.

Hợp đồng của Jessi với YMC Entertainment đã kết thúc vào tháng 10 năm 2018 và vào tháng 1 năm 2019, cô đã ký hợp đồng với công ty P Nation của Psy. Đĩa đơn đầu tiên của cô dưới công ty, "Who Dat B", được phát hành vào ngày 23 tháng 9 năm 2019.[3]

Jessi và hành trình vượt lên mọi giới hạn của làng giải trí[sửa | sửa mã nguồn]

Jessi vốn sinh ra và lớn lên tại New York, Hoa Kỳ. Thuở nhỏ, cô theo học cùng trường trung học với Tiffany và Jessica, hai cựu thành viên của nhóm nhạc nữ nổi tiếng SNSD. Với ước mơ trở thành giọng ca hàng đầu của Kpop, Jessi đã quyết định đến Hàn Quốc để tham dự buổi thử giọng cho Doremi Media vào năm 2003.

Khao khát trở thành một nghệ sĩ đã đưa Jessi tới Hàn Quốc

Sau hai năm thực tập đầy vất vả, cô nàng đã ra mắt đĩa đơn đầu tiên trong sự nghiệp mang tên Get Up. Tuy vậy, Jessi không được chú ý bởi phong cách cô theo đuổi lúc bấy giờ đi ngược hoàn toàn với xu thế của Kpop. Sau lần ra mắt không mấy thành công, Jessi quyết định tạm ngưng mọi hoạt động để tiếp tục trau dồi khả năng ca hát, vũ đạo của bản thân và chuẩn bị cho lần trở lại tiếp theo. Cho đến 4 năm sau,cô nàng chính thức quay lại đường đua Kpop.Rất đáng tiếc vì tên tuổi của cô sớm bị chìm vào lãng quên.Vì vậy, album The Rebirth ra mắt vào đầu năm 2009 cũng lâm vào cảnh thất bại. Jessi khi đó cũng chỉ mới 20 tuổi,cô gái trẻ ấy không khỏi chán nản và hoài nghi về con đường mình đã chọn.Nữ ca sĩ quyết định quay trở về Mỹ và từ bỏ âm nhạc, thứ mình đam mê bấy lâu.

Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Album đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Title Album details Track listing Sales
"Get Up"
  • Phát hành: Ngày 1 tháng 12 năm 2005
  • Ngôn ngữ: Tiếng Anh và Hàn
  • Hãng đĩa: Doremi Records
  • Định dạng: CD, digital download
Track listing
  1. "W.T.H"
  2. "Missin' U"
  3. "Get Up"
  4. "1-2 Step"
  5. "Give It All"
  6. "Missin' U"
  7. "All I Need..."
  8. "The Christmas Song"

Single[sửa | sửa mã nguồn]

Tựa đề Năm Vị trí xếp hạng cao nhất Doanh số Album
Hàn[5]
"Life Is Good" 2009
"I Want To Be Me" 2015 31
"Ssenunni" 29
  • KOR: 140,783+
"Raise on Heels (feat. Dok2)"
"Excessive Love" 2016 65 33,087 +

Bài hát nhạc phim và nhóm/ bài hát solo[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Song Duration Artist
2014 "Can You Hear Me" 3:21 Lucky J
"How much is your love" 3:14 Wheesung & Bumkey
"No No No" 3:22 Pharoh feat Jessi
2015 "My Type" 3:17 Kangnam, Cheetah & Jessi
"Unpretty Dreams" 3:17 Jessi
"Who's Your Mama?" 3:48 Park Jin-young feat Jessi
"I Want To Be Me" 3:26 Jessi
"Ssenunni" 2:55 Jessi
"Just Like You" 3:32 Primary feat Jessi
"Me, Myself & I" 3:15 Heize feat Wheesung & Jessi
2016 "No Love" 3:38 Lucky J
"Excessive Love" 3:57 Jessi
"Kwaejina Ching Ching Nane" 3:40 Jessi, Kim Young Im, & Crispi Crunch
"Hangover" 3:13 Baechigi feat. Jessi
"Shut Up" 3:12 Unnies
"Crazy Guy" 3:12 #gun feat. Jessi
"Talkin Bout" 2:52 Microdot feat Jessi

Chương trình truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Chương trình tạp kỹ và thực tế[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên Kênh phát sóng Tập Ghi chú
2014 Immortal Songs 2 Mnet Khách mời với Lucky J
Singer Game Tập 1
2015 Unpretty Rapstar Tập 1-8 Thí sinh
I Am a Singer MBC Khách mời Wheesung
Taxi TVN Khách mời với Cheetah và Yuk Jidam
You Hee-yeol's Sketchbook KBS Khách mời với JYP
My Little Television MBC Khách mời với San E
Happy Together Tập 392 Khách mời
SNL Korea TVN
Running Man SBS Tập 244, 252
Hello Counselor KBS Tập 223
Heart A Tag Mnet Tập 1, 2
One Night of TV Entertainment SBS
World Changing Quiz MBC Tập 297
Immortal Songs 2 Mnet Khách mời với Yuk Jidam
You Hee-yeol's Sketchbook KBS Tập 283 Khách mời với Cheetah
Real Men 3 MBC Thành viên chính thức
After School Club Arirang TV Tập 142, 178 Khách mời
King of Mask Singer MBC Tập 35 Thí sinh (với sân khấu tên là "Miss Korea")
Radio Star MBC Khách mời với Jackson Wang, Lena Park và Cao Lu
Healing Camp SBS Tập 215 Khách mời
You Hee-yeol's Sketchbook KBS
Two Yoo Project Sugar Man JTBC Tập 2 Trình diễn với J'Kyun
Show Me the Money 4 Mnet Tập 9 Ca sĩ góp giọng[6]
2016 Same Bed, Different Dreams SBS Tập 39 Khách mời
Please Take Care of My Refrigerator JTBC Tập 69, 70 Khách mời với Hyuna
Sister's Slam Dunk KBS2 Tất cả Thành viên chính thức
After School Club Arirang TV Tập 211 Khách mời
Duet Song Festival MBC Tập 1, 2 Thí sinh với Kim Seok-goo
Two Yoo Project Sugar Man JTBC Tập 28 Trình diễn với Hanhae
Knowing Bros Tập 31 Khách mời với Seo In-young và Kim Jong-min
I Can See Your Voice 3 Mnet Tập 6 Khách mời
Happy Together KBS Tập 464
Show Me the Money 5 Mnet Tập 9 Ca sĩ góp giọng[7]
2020 Sixth Sense Phần 1 Thành viên cố định
2021 Phần 2
2022 Phần

3

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Kim Jin-seok (18 tháng 11 năm 2016). '사실무근 일단락' 간밤의 제시 폭행 사건 전말[종합]”. Korea Joongang Daily (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2021.
  2. ^ After School Club (episode 178).
  3. ^ Shin Yeon-kyu (23 tháng 9 năm 2019). “제시의 솔직한 소울 감성 'Who Dat B' [MK★컴백]”. MK Sports (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ 2005.12월 - 가요 음반 판매량 [Album sales for December 2005] (bằng tiếng Triều Tiên). Recording Industry Association of Korea. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2015. |script-title= không hợp lệ: missing prefix (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  5. ^ “Gaon Digital Chart” (bằng tiếng Triều Tiên). Gaon Chart. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2015.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  6. ^ 블랙넛 (Black Nut) - 내가 할 수 있는 건 (Feat. Jessi) Music Video, Retrieved ngày 23 tháng 3 năm 2016
  7. ^ 블랙넛 (‘I miss you, I love you’ #gun Crazy Guy (Feat. Jessi) Music Video, Retrieved ngày 1 tháng 10 năm 2016

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]