Juliana Kanyomozi

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Juliana Kanyomozi, được biết đến nhiều nhất bởi tên gọi Juliana, là một nhạc sĩ, diễn viên và nghệ sĩ nhạc pop người Uganda.[1]

Bối cảnh và giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

Kanyomozi là em họ con chú con bác của Rukidi IV của Toro.[2] Cha cô là một tay trống và bà của cô là một ca sĩ.[3] Cô theo học trung học tại trường Namasagali ở quận Kamuli.[4]

Nghề nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Kanyomozi là nữ nhạc sĩ đầu tiên giành giải thưởng Âm nhạc Châu Phi của Châu Phi (Giải thưởng PAM) 'Nghệ sĩ của năm'.[5] Năm 2008, cô xuất hiện lần đầu trong bộ phim Kiwani của Henry Ssali: The Movie.[6][7]

Vào tháng 3 năm 2014, cô ký hợp đồng với công ty mỹ phẩm quốc tế Oriflame để trở thành một trong những đại sứ thương hiệu Đông Phi của họ cùng với Lady JayDee của Tanzania và Jamila Mbugua của Kenya.[8] Gần đây, cô đã hợp tác với nghệ sĩ Flavia người Nigeria.[9]

Năm 2011, cô được đề cử trong hạng mục Nghệ sĩ hoặc Nhóm Pan Africa tại Giải thưởng Giải trí Nigeria (NEA) năm đó.[10] Vào tháng 12 năm 2015, cô đã giành được giải thưởng thành tựu trọn đời trong Diva Awards Afrika.[11]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Kanyomozi có con trai, Keron Raphael Kabugo, đã qua đời vào cuối tháng 7 năm 2014.[12] Con trai cô bị hen suyễn, nhưng nguyên nhân cái chết không được công bố.[13]

Năm 2006, Kanyomozi có một mối quan hệ lãng mạn tạm thời với võ sĩ Uganda sống tại Mỹ, Kassim Ouma.[14]

Vào năm 2013, tạp chí Big Eye đã xếp hạng Kanyomozi là một trong những phụ nữ Uganda đẹp nhất mọi thời đại.[15]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Okoth, Brian (ngày 13 tháng 8 năm 2015). “Ugandan singer Juliana Kanyomozi reveals secret behind her beauty”. Nairobi: Citizen TV Kenya. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2016.
  2. ^ Nankya, Connie (ngày 20 tháng 3 năm 2011). “Princess Juliana Kanyomozi of the golden voice”. Daily Monitor Mobile. Kampala. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2016.
  3. ^ Muiruri, Peter (ngày 21 tháng 12 năm 2013). “Unveiling a musical princess: Juliana Kanyomozi”. The Standard (Kenya). Nairobi. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2016.
  4. ^ Bita, George (ngày 12 tháng 10 năm 2009). “Namasagali College Takes A Plunge”. New Vision. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  5. ^ Jude Katende, and Gilbert Mwijuke (ngày 2 tháng 11 năm 2008). “Juliana Is Uganda's 2008 Musician”. New Vision. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  6. ^ Nassar, Nigel (ngày 27 tháng 3 năm 2008). “Juliana Takes to the Silver Screen”. Kampala: New Vision. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  7. ^ Serugo, Moses (tháng 4 năm 2008). “Bad policeman turned good”. Daily Monitor. Kampala. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  8. ^ Mwijuke, Gilbert (ngày 6 tháng 11 năm 2008). “Juliana's Winding Music Journey”. New Vision. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2014.
  9. ^ Issa, Ayiswa (ngày 26 tháng 11 năm 2015). “Singer Juliana Kanyomozi is in good spirits after Coke Studio experience with Nigeria's Flavour”. Kampala: Ofuganda.co.ug. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2016.
  10. ^ News Team (ngày 19 tháng 6 năm 2011). “Ugandan Diva Juliana Nominated For Nigeria Awards”. Boston, MA, USA: Ugandan Diaspora News. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  11. ^ Alinda, Alex (ngày 15 tháng 9 năm 2015). “Juliana Receives Special Recognition At Diva Awards Afrika 2015”. Kampala: Chimpreports.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2016.
  12. ^ Kasujja, Carol (ngày 22 tháng 7 năm 2014). “Juliana Kanyomozi's son's burial for Friday”. New Vision. Kampala. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2016.
  13. ^ Vision Reporters (ngày 20 tháng 7 năm 2014). 'Sleep Well My Son, Till We Meet Again'. New Vision. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  14. ^ Sserugo, Frank (ngày 19 tháng 8 năm 2008). 'The Dream' Ouma Weds Jalia on Saturday”. New Vision. Kampala. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2014.
  15. ^ Abeka, Moses (ngày 24 tháng 6 năm 2013). “Princess Bagaaya tops Most Beautiful Ugandan of-all-time list”. Kampala: Big Eye Magazine. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2016.