Kế Hoàng hậu
Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu 清高宗继皇后 | |
---|---|
Càn Long Đế Hoàng hậu | |
![]() Bức chân dung được cho là Kế Hoàng hậu, hiện trưng bày tại Musée des Beaux-Art de Dole, Pháp | |
Hoàng quý phi Đại Thanh (Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi) | |
Tại vị |
1 tháng 7 năm 1748 - 2 tháng 8 năm 1750 |
Đăng quang | 5 tháng 4 năm 1749 |
Tiền nhiệm | Hoàng quý phi Cao thị |
Kế nhiệm | Hoàng quý phi Tô thị |
Hoàng hậu Đại Thanh | |
Tại vị |
2 tháng 8 năm 1750 - 14 tháng 7 năm 1766 |
Đăng quang | 2 tháng 8 năm 1750 |
Tiền nhiệm | Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu |
Kế nhiệm | Hiếu Thục Duệ Hoàng hậu |
Thông tin chung | |
Phối ngẫu |
Thanh Cao Tông Càn Long hoàng đế |
Hậu duệ |
Vĩnh Cơ Vĩnh Cảnh Hoàng ngũ nữ |
Thụy hiệu |
Không có Thu hồi sách bảo |
Thân phụ | Na Nhĩ Bố |
Thân mẫu | Lang Giai thị |
Sinh | 11 tháng 3, 1718 |
Mất |
19 tháng 8, 1766 Tử Cấm Thành, Bắc Kinh | (48 tuổi)
An táng |
28 tháng 9 năm 1766 Phi viên tẩm của Dụ lăng, Thanh Đông lăng |
Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu (chữ Hán: 清高宗继皇后, 11 tháng 3, năm 1718 - 19 tháng 8, năm 1766), là Kế hậu của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Bà là Hoàng hậu nhà Thanh duy nhất không có thụy hiệu. Trong Thanh sử cảo, bà được chính thức ghi là Hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị (皇后烏拉那拉氏), sử thần Triều Tiên gọi bà là Thanh Cao Tông Hoàng hậu (清高宗皇后), các sách đương thời hay gọi Na Lạp Hoàng hậu (那拉皇后), vì bà không có thụy hiệu để xưng hô.
Từ vị trí Trắc Phúc tấn, Na Lạp thị tấn lên Phi rồi Quý phi. Sau khi Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu mất, chỉ trong vòng chưa tới 5 tháng, Na Lạp thị đã được Càn Long Đế chọn làm người kế thừa Trung cung, phong làm Hoàng quý phi, rồi sáng tạo ra danh hiệu [Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự; 皇貴妃攝六宮事], với nghi thức sắc phong cùng đại lễ, quy chế hoàn bị đều nhất nhất án theo lễ lập Hoàng hậu mà cử hành. Có thể nói quy cách năm đó của Na Lạp thị là điều chưa từng có trong lịch sử nhà Thanh. Người duy nhất có thể so sánh đãi ngộ này của bà chỉ có vị sủng phi nổi tiếng của Thuận Trị Đế, tức Đổng Ngạc phi. Sau khi trở thành Hoàng hậu, Na Lạp thị cùng Càn Long Đế ân ái, thường đi theo Hoàng đế tham gia các buổi du tuần quan trọng, vào lúc ấy có thể nói là [Vinh sủng cực điểm]. Tuy nhiên vào đầu năm Càn Long thứ 30, khi cùng Càn Long Đế thực hiện Nam tuần, Na Lạp thị bị trả về Bắc Kinh. Không lâu sau đó, Càn Long Đế ra chỉ thu hồi toàn bộ sách văn của bà và giam cầm vào trong cung.
Sự việc của Na Lạp hoàng hậu cho đến nay vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi của lịch sử nhà Thanh. Một số nhận định bà đã làm điều thất đức hay ác độc khiến Càn Long Đế chán ghét. Tuy nhiên những tư liệu cho thấy căn bản là giữa bà và Hoàng đế đã xảy ra mâu thuẫn lớn trong chuyến Nam tuần, dẫn đến tình trạng bà bị Hoàng đế ra cấm túc cho đến khi qua đời. Việc bà bị cấm túc cũng đã dấy lên nhiều dị nghị bất bình trong triều đình lúc bấy giờ. Theo những tài liệu thể hiện, cùng lời lời giải thích vào năm 1778 của bản thân Càn Long Đế, ngày hôm đó Hoàng hậu Na Lạp thị đã cắt tóc để xuất gia, mà việc cắt tóc (tiễn phát) là điều đại kỵ nhất trong quốc tục Mãn Thanh. Điều này lại dẫn đến những phán đoán cùng tranh cãi xung quanh lý do Na Lạp hoàng hậu, nhiều năm nhận được ân sủng, cuối cùng lại chọn cắt tóc xuất gia, buông bỏ Hậu vị mà phạm vào đại kỵ khiến Hoàng đế giam cầm. Khi Na Lạp hoàng hậu qua đời, Càn Long Đế không ban thụy hiệu, lại án theo lễ Hoàng quý phi mà an táng, dùng [Hoăng; 薨] thay vì [Băng; 崩] dành cho Đế-Hậu để tuyên cáo thiên hạ cái chết của bà. Những điều đã khiến nhiều triều thần phản đối, có quan viên vì ngăn cản mà bị lưu đày.
Sự việc của bà cũng được đồn đại trong dân gian, nổi tiếng nhất là những truyền thuyết ở Giang Nam, tất cả đều cho rằng Càn Long Đế khi du tuần Giang Nam, nổi dâm ý muốn nạp ca kỹ làm cung phi, dẫn đến việc Hoàng hậu can ngăn mà bị khiển trách. Nhìn chung, dưới con mắt đương thời, sự việc của Hoàng hậu không hề khiến bà mang tiếng ác, thậm chí vì bênh vực bà mà đều hướng đến Càn Long Đế chỉ trích.
Mục lục
Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]
Dòng dõi[sửa | sửa mã nguồn]
Thanh Cao Tông Kế Hoàng hậu sinh ngày 10 tháng 2 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 57. Trong sách Thanh sử cảo, bà được gọi là [Ô Lạp Na Lạp thị; 烏拉那拉氏], tuy nhiên đúng ra bà phải được gọi là [Huy Phát Na Lạp thị; 輝發那拉氏], do dòng tộc bà là hậu duệ của Huy Phát Bối lặc Vương Cơ Trữ (王機褚).
Theo Khâm định Bát Kỳ thông chí (钦定八旗通志) và Bát Kỳ Mãn Châu thị tộc tông phổ (八旗满洲氏族通谱), dòng tộc của Hoàng hậu Huy Phát Na Lạp thị vốn mang họ Na Lạp thị, sống tại vùng đất tên Huy Phát. Đất Huy Phát là khởi thủy bởi Huy Phát Bối lặc Vương Cơ Trữ, xét là Mãn Châu Tương Lam kỳ thuộc Hạ ngũ kỳ xuất thân. Nguyên gốc dòng họ của Hoàng hậu cần phải giải thích khá phức tạp, bổi vì vốn dĩ họ [Na Lạp thị] là một dòng dõi cổ xưa của người Nữ Chân, đã có ghi chép cuối thời nhà Đường, sang thời nhà Minh thì sinh ra 4 bộ lớn ở Hải Tây, tất cả đều mang họ Na Lạp thị, nên gọi [Na Lạp tứ bộ]. Bốn bộ ấy bao gồm: Diệp Hách, Ô Lạp, Cáp Đạt và Huy Phát.
Vấn đề gọi họ[sửa | sửa mã nguồn]
Căn cứ "Tông phổ", trong 4 bộ tộc của Na Lạp thị thì có sớm nhất là Ô Lạp, sau một nhánh tộc Na Lạp đất Ô Lạp di cư sang Cáp Đạt, hình thành nên hai nhánh lớn của Na Lạp thị là dòng [Ô Lạp Na Lạp thị] và [Cáp Đạt Na Lạp thị][1]. Ngoài ra nếu trong lãnh thổ có một địa danh do họ [Na Lạp thị] cai quản, cũng lấy tên địa danh gọi thành tông tộc, như [Trương Na Lạp thị]. Về sau, có một người Mông Cổ tên Tinh Căn Đạt Nhĩ Hán (星根達爾漢), nguyên dòng dõi Thổ Mặc Đặc thị, xuất quân tiêu diệt Trương Na Lạp thị, phát hiện địa phương này lấy họ Na Lạp thị làm thủ lĩnh, cũng bèn đổi họ của mình qua Na Lạp thị, gọi là [Thổ Mặc Đặc Na Lạp thị]. Về sau, Thổ Mặc Đặc Na Lạp thị di cư đến đất Diệp Hách, hình thành nên dòng tộc [Diệp Hách Na Lạp thị] danh tiếng.
Tương tự như vậy, Hắc Long giang Nữ Chân có một chi là [Ích Khắc Đắc Lý thị], thủ lĩnh là một đôi anh em tên Ngang Cổ Lý (昂古里) và Tinh Cổ Lực (星古力), đem toàn bộ bộ tộc đến địa phương tên Trương. Địa phương có đại bộ chủ, tên Cát Dương Cát Thổ Mặc Đồ (噶揚噶土墨圖), họ Na Lạp thị, chịu trợ giúp hai anh em, nên hai anh em từ đó sửa họ lại thành Na Lạp thị. Về sau hậu duệ Tinh Cổ Lực di cư đến Huy Phát, phát kiến ra Huy Phát quốc, là ngọn nguồn của [Huy Phát Na Lạp thị]. Do tính chất phân nhánh như vậy của Na Lạp thị, các chi Na Lạp thị luôn tự xưng mình là dòng dõi cổ nhất trong 4 chi, tức Ô Lạp Na Lạp thị.
Cho nên đáng lý ra, Thanh Cao Tông Kế hoàng hậu phải được gọi là [Hoàng hậu Huy Phát Na Lạp thị], nhưng dòng dõi của bà vẫn tự xưng là [Ô Lạp Na Lạp thị], cũng đều có nguyên do, đó là vì các gia tộc Mãn Châu luôn có hiện tượng "leo lên", tức là các bộ tộc ít tiếng tăm hơn, đều tự xưng là một bộ tộc có cùng họ (trong đây Huy Phát là nơi phát tích, Na Lạp thị là họ). Trường hợp này tương tự Giác La thị, có: Ái Tân Giác La thị, Y Nhĩ Căn Giác La thị, Tây Lâm Giác La thị, Thư Thư Giác La thị và Gia Mộc Hồ Giác La thị. Trong đó, ngoại trừ Ái Tân Giác La, còn thì Y Nhĩ Căn Giác La là dòng họ có nhiều nhất, nên trong sách phong hoặc truyện ký, hậu duệ Thư Thư Giác La thị và Gia Mộc Hồ Giác La thị thường xuyên tự nhận mình là Y Nhĩ Căn Giác La. Trong các kim sách hoặc văn bản của người Mãn, nơi phát tích không thường được ghi kèm với họ mà chỉ ghi họ không, mà nơi phát tích dòng dõi của bà là [Huy Phát], do đó bà hay được gọi là [Na Lạp thị] mà thôi.
Như vậy xét ra, Hoàng hậu Na Lạp thị không cùng dòng dõi với Hiếu Kính Hiến hoàng hậu - nguyên phối của Thanh Thế Tông Ung Chính Đế; cũng như không hề liên quan đến gia tộc Ô Lạp Na Lạp thị của Hiếu Kính Hiến hoàng hậu.
Gia thế[sửa | sửa mã nguồn]
Nếu chỉ xét về nguồn gốc, dòng dõi của Kế hoàng hậu là dòng dõi của Huy Phát quốc chủ Na Lạp thị, nhìn chung gốc gác rất cao quý. Cao tổ phụ là Mãng Khoa (莽科), là cháu nội của Huy Phát bối lặc Vương Cát Nỗ (王吉砮), cùng thế hệ với vị Bối lặc cuối cùng của Huy Phát quốc, Bái Âm Đạt (拜音達). Mãng Khoa dẫn tông tộc nhập Mãn Châu kỳ, phân phó ở Tương Lam kì, này qua các đời thế tập[2] chức vụ Tá lĩnh (佐领), thuộc hàng Tứ phẩm. Mãng Khoa sinh La Hòa (罗和) nhậm chức Phó đô thống. La Hòa sinh ra La Đa (罗多) nhậm chức Hộ quân Tham lĩnh và Na Nhĩ Bố (那爾布) nhậm chức Tá lĩnh (佐領). Na Nhĩ Bố là cha thân sinh ra Na Lạp thị, từng giữ chức ở Thịnh Kinh, do đó rất có thể Na Lạp thị sinh ra tại đây. Chính thất và cũng là mẹ của Na Lạp thị là Lang Giai thị (郎佳氏), ngoài Na Lạp thị còn sinh ra một con trai tên Nột Lý (讷里), Nột Lý sinh ra Nạp Tô Khẳng (纳苏肯).
Suy xét về gia thế, gia đình của Kế hoàng hậu không hề tồi, nhưng cũng không xem là quá vinh quý. Tổ phụ đảm nhiệm "Phó đô thống", bá phụ đảm nhiệm "Hộ quân Tham lĩnh", tuy xem là cao cấp quan viên, song xét với Thượng thư hay Đô thống vẫn là có chênh lệch. Cha bà tập tước Tá lĩnh, mà ở xã hội Mãn Châu, tầng lớp cai trị rất xem trọng thể thức Thế quản Tá lĩnh, rồi Thế tước thế chức; biểu thị cho địa vị của dòng tộc trong xã hội Mãn Châu khi đó. Trong đó, Thế tước thế chức biểu thị địa vị gia tộc có công lao khai quốc mà được thụ phong, còn Thế quản Tá lĩnh lại biểu thị dòng dõi có truyền thống và gốc gác cao. Đấy là bởi vì để có được chức "Tá lĩnh", thông thường đều là từ tầng lớp giai cấp Bộ trưởng người Nữ Chân khi xưa, vì những Bộ trưởng sau khi nhập kỳ mới đủ tư cách có chức Tá lĩnh. Tư duy tôn sùng "Bộ trưởng" đặc biệt cao, nhất là giai đoạn đầu thời kì nhập quan. Khi Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế chọn lập Hoàng hậu, tính chọn cháu gái Sách Ni, thì Ngao Bái không đồng tình, mà nên chọn con gái của Át Tất Long. Vì bởi lẽ, Sách Ni tuy là phụ chính đaị thần, quan hàm cao quý, song xuất thân Hách Xá Lý thị rất thấp, chỉ là Hải Tây bộ nhân, không có chức Bộ trưởng hay Lộ trưởng, trong khi đó Át Tất Long xuất thân cao quý Nữu Hỗ Lộc, thế tập Lộ trưởng của Anh Ngạch địa phương. So sánh thì dòng dõi của Sách Ni hoàn toàn thua xa.
Điều này không có nghĩa gia đình của Kế hoàng hậu là có địa vị cực khủng, nếu tính ra thì tuy dòng dõi Huy Phát quốc chúa, song gia đình bà không thuộc chi gần bằng gia tộc của Thông Quý (通貴) thuộc Tương Hồng kỳ, cũng là tử tôn của Vương Cát Nỗ, chi tộc này có Thế quản Tá lĩnh lẫn Thế tước truyền đời. Đặc biệt gia tộc của Kế hoàng hậu, nếu so với Phú Sát thị của Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu thì cũng là một quãng xa, do dòng họ này xuất xứ từ "Lộ trưởng", thế tập Tá lĩnh lẫn thừa tước, nhập kì phân ở Tương Hoàng kỳ cao quý, hơn nữa bản thân gia tộc Phú Sát thị khi đó đã có danh vị trọng thần, địa vị gốc gác lẫn thực tế quyền hành đều cao cấp.
Tuy vậy, so với các phi tần khác, đặc biệt là sinh mẫu của Thanh Nhân Tông, Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu Ngụy Giai thị, thì Kế Hoàng hậu vẫn có xuất thân cao quý hơn hẳn.
Phong Phi lập Hậu[sửa | sửa mã nguồn]
Trở thành Trắc Phúc tấn[sửa | sửa mã nguồn]
Na Lạp thị nguyên xuất thân là Mãn Châu Tương Lam kỳ, tức [Kỳ phân Tá lĩnh] hay [Ngoại Bát kỳ], do đó theo lệ sẽ tham gia trong các đợt Bát Kỳ tuyển tú[3]. Căn cứ vào tư liệu tuyển tú, năm Ung Chính thứ 5 (1727) tiến hành Bát Kỳ tuyển tú, cùng với dựa theo thường quy suy tính hai năm một lần dưới triều Ung Chính, thì các mốc tuyển tú còn lại sẽ là: năm thứ 2 (1724), năm thứ 8 (1730) và năm thứ 11 (1733).
Dựa theo cứ liệu trước mắt, Na Lạp thị ở năm Ung Chính thứ 12, mùa xuân được chỉ định làm Trắc Phúc tấn cho Bảo thân vương Hoằng Lịch. Tuy nhiên, ngay bản thân Càn Long Đế về sau cũng từng nói:"Tự hoàng khảo khi ban làm Trắc thất phi của Trẫm, hơn 20 năm tới nay”. Nếu tính thời gian trong chỉ dụ vào năm Càn Long thứ 15 (1750), thì Na Lạp thị lại ở đợt tuyển tú năm Ung Chính thứ 8 (1730) nhập Bảo thân vương phủ.
Theo điều tra hồ sơ ban thưởng, thì vào tháng 5 năm Ung Chính thứ 12, cho thưởng cho cha của Na Lạp thị là Na Nhĩ Bố cùng chính thê vật phẩm. Sang ngày 29 tháng 10 (âm lịch) cùng năm, ban cho nhà Na Nhĩ Bố dinh trạch ở rộng 42 gian, từ tư liệu này biết được thì nguyên nhà của Na Nhĩ Bố ở phía Đông ven sông Hà Tạo. Trên thực tế, nhà Na Nhĩ Bố căn bản là trung đẳng Bát Kỳ, dòng dõi cao quý nhưng lại không thịnh vượng, gia tộc đã bắt đầu xuống dốc. Trước đó, một vị tỷ tỷ của Na Lạp thị được gả vào Tông Thất vị Công tước, một đường chất nữ gả vào Trịnh vương phủ, nhưng chung quy đối với gia tộc cũng không mang lại lợi ích gì lớn lao. Bởi vậy, có thể hình dung toàn bộ gia tộc đối với việc Na Lạp thị trở thành Trắc Phúc tấn của Hoằng Lịch đã ôm rất nhiều kỳ vọng. Cùng năm ấy, ngày 8 tháng 11 (âm lịch), Khâm Thiên giám quyết định là "ngày lành tháng tốt", cử hành lễ đưa Na Lạp thị vào phủ. Bên cạnh đó, không rõ nguyên nhân gì lại lấy lệ đãi Quận vương Đích Phúc tấn cử hành, mà không phải lễ của Thân vương Trắc Phúc tấn. Năm ấy, Na Lạp thị chỉ vừa 16 tuổi.
Trong các đợt Bát Kỳ tuyển tú, Hoàng đế có thể chọn các tú nữ vừa mắt cho hoàng tử thân vương, đó là một loại vinh dự vì do chính Hoàng đế ban hôn. Mà có thể tham dự Bát Kỳ tuyển tú, thì chắc chắn xuất thân và gia thế không thể nào tồi, nên thông thường đều là Đích Phúc tấn, hoặc ít nhất cũng là Trắc Phúc tấn. Tuy chỉ là trắc thất, song địa vị Trắc Phúc tấn trong phủ đệ vương công cũng được xem là cao quý, có sắc phong, đãi ngộ và triều phục đều theo quy định của triều đình gần giống Đích Phúc tấn. Đây cũng là một trong các lý do Na Lạp thị được chọn làm Hoàng hậu về sau.
Sơ phong Nhàn phi[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Ung Chính thứ 13 (1735), ngày 23 tháng 8 (âm lịch), Thanh Thế Tông Ung Chính Đế băng hà. Ngày 3 tháng 9 (âm lịch) cùng năm, Bảo Thân vương Hoằng Lịch nối ngôi, sử gọi [Càn Long Đế]. Cùng ngày hôm ấy, dụ tôn Hi phi Nữu Hỗ Lộc thị làm Hoàng thái hậu, lập Đích phi Phú Sát thị làm Hoàng hậu.
Ngày 24 tháng 9 (âm lịch) cùng năm ấy, Càn Long Đế mới quyết định danh vị cho phi tần. Hoàng đế ra chỉ dụ tấn Trắc phi Na Lạp thị là Phi, tạm gọi [Na phi; 那妃]. Cùng ngày đó, có Trắc phi Cao thị được dụ tấn Quý phi, đứng đầu chúng tần phi và trên Na phi. Ngoài ra còn có Cách cách Tô thị và Cách cách Hoàng thị đều phong Tần, Cách cách Kim thị phong làm Quý nhân, còn Cách cách Hải thị cùng Cách cách Trần thị làm Thường tại[4].
Năm Càn Long thứ 2 (1737), ngày 4 tháng 12, lấy Hiệp bạn Đại học sĩ Lễ Bộ Thượng thư Tam Thái (三泰) làm Chính sứ, Nội các Học sĩ Đại Kỳ (岱奇) làm Phó sứ, tuyên chỉ sách phong Phi Na Lạp thị phong hiệu là Nhàn phi (娴妃)[5]. Theo Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用) của Nội vụ phủ soạn thảo, “Nhàn” theo Mãn văn là 「Elehun」, ý là “Điềm nhiên”, “Thản nhiên”, “Điềm tĩnh”.
Sách văn viết:
“ |
朕惟教始宫闱。式重柔嘉之范。德昭珩佩。聿资翊赞之功。锡以纶言。光兹懿典。尔庶妃那拉氏、持躬淑慎。赋性安和。早着令仪。每恪恭而奉职勤修内则。恒谦顺以居心。兹仰承皇太后慈谕。以册印封尔为娴妃。尔其祗膺巽命。荷庆泽于方来。懋赞坤仪。衍鸿休于有永。钦哉。 . Trẫm duy giáo thủy cung vi. Thức trọng nhu gia chi phạm. Đức chiêu hành bội. Duật tư dực tán chi công. Tích dĩ luân ngôn. Quang tư ý điển. Nhĩ Thứ phi Na Lạp thị, trì cung thục thận. Phú tính an hòa. Tảo trứ lệnh nghi. Mỗi khác cung nhi phụng chức cần tu nội tắc. Hằng khiêm thuận dĩ cư tâm. Tư ngưỡng thừa Hoàng thái hậu từ dụ. Dĩ sách ấn phong nhĩ vi Nhàn phi. Nhĩ kỳ chi ưng tốn mệnh. Hà khánh trạch vu phương lai. Mậu tán khôn nghi. Diễn hồng hưu vu hữu vĩnh. Khâm tai. |
” |
— Sách văn Nhàn phi Na Lạp thị |
Tấn phong Quý phi[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Càn Long thứ 10 (1745), ngày 23 tháng 1 (âm lịch), Càn Long Đế ra chỉ dụ tấn phong Quý phi Cao thị làm Hoàng quý phi. Bên cạnh đó Hoàng đế cũng quyết định đại phong hậu cung, tấn phong Nhàn phi Na Lạp thị, Thuần phi Tô thị đều trở thành Quý phi, Du tần lên Phi, Ngụy Quý nhân lên Tần[6]. Nguyên văn lời dụ năm ấy:
- [Càn Long năm thứ mười. Ất sửu. Tháng giêng. Ất vị. Dụ, trẫm phụng Hoàng thái hậu ý chỉ. Quý phi sinh ra nơi vọng tộc, Tá trì hậu cung, Hiếu kính tính thành, Ôn cung làm trứ, nay tấn phong Hoàng quý phi. Dĩ chương thục đức. Nhàn phi, Thuần phi, Du tần, Ngụy Quý nhân. Phụng thị cung đình. Thận chuyên uyển thuận. Nhàn phi, Thuần phi tấn phong Quý phi, Du tần tấn phong Du phi, Ngụy Quý nhân tấn phong Lệnh tần. Dĩ chiêu dạ quyến. Khâm thử. Đặc biệt truyền dụ. Cai thuộc cấp ứng với đi điển lễ. Xét lệ cụ tấu].
Khoảng 2 ngày sau khi có chỉ dụ, Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao thị đã hoăng thệ, Nhàn Quý phi Na Lạp thị bấy giờ có phẩm vị cao nhất Hậu cung vì chỉ xếp sau Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu. Còn Thuần Quý phi Tô thị tuy cùng là Quý phi, có tư lịch lâu hơn và sinh hạ Hoàng tam tử, song Tô thị xuất thân thường dân, còn Na Lạp thị xuất thân Mãn Châu quý tộc, hơn nữa từ khi ở tiềm để thì Na Lạp thị đã là Trắc Phúc tấn, do đó hiển nhiên rằng địa vị của Na Lạp thị cao quý hơn. Bên cạnh đó, Na Lạp thị khi được đề cập cùng Tô thị đều luôn được đứng trước trong các ghi chép, mà việc đứng trước hay sau trong các tài liệu cổ cực kì quan trọng và nghiêm ngặt. Cùng năm vào tháng 2, ngày Giáp Dần, Càn Long Đế dụ trong Nghi trượng của Hoàng quý phi và Quý phi, một số bộ phận dùng màu [Kim hoàng sắc; 金黄色], như vậy thì về cơ bản Hoàng đế đã nâng Nhàn Quý phi cùng Thuần Quý phi có địa vị cao hơn rất nhiều nếu so với các vị Quý phi ở hai thời Khang Hi và Ung Chính, hay thậm chí là so với Tuệ Hiền Hoàng quý phi vừa mất[7].
Ngày 17 tháng 11 (âm lịch) cùng năm, lấy Đại học sĩ Sử Di Trực (史貽直) làm Chính sứ, Lễ bộ Hữu thị lang Giác La Thặc Nhĩ Sâm (覺羅勒爾森) làm Phó sứ, sách phong Nhàn phi Na Lạp thị làm Nhàn Quý phi (嫻貴妃).
Sách văn viết:
“ |
朕惟化起璇闺。克佐肃雝之范。劳襄椒掖。聿彰淑慎之声。爰考彝章。式颁纶綍。咨尔娴妃那拉氏。性生婉顺。质赋柔嘉秉德罔愆。协珩璜之矩度。服勤有素。膺褕翟之光荣。兹仰承皇太后慈谕。以册宝封尔为贵妃。尔其益懋温恭。尚祗承夫休命。弥怀谦抑。庶永集乎繁禧。钦哉。 . Trẫm duy hóa khởi toàn khuê. Khắc tá túc ung chi phạm. Lao tương tiêu dịch. Duật chương thục thận chi thanh. Viên khảo di chương. Thức ban luân phất. Tư nhĩ Nhàn phi Na Lạp thị. Tính sinh uyển thuận. Chất phú nhu gia bỉnh đức võng khiên. Hiệp hành hoàng chi củ độ. Phục cần hữu tố. Ưng du địch chi quang vinh. Tư ngưỡng thừa Hoàng thái hậu từ dụ, dĩ sách bảo phong nhĩ vi Quý phi. Nhĩ kỳ ích mậu ôn cung. Thượng chi thừa phu hưu mệnh. Di hoài khiêm ức. Thứ vĩnh tập hồ phồn hi. Khâm tai. |
” |
— Sách văn Nhàn Quý phi Na Lạp thị |
Nhàn Quý phi Na Lạp thị từ tiềm để chưa được một năm, đến nay liền được tấn phong Quý phi, có thể xem là cực kì hiếm hoi trong lịch sử nhà Thanh. Đó là bởi vì phi tần nhà Thanh để được tấn phong đều một là xem tư lịch, hai là xem con nối dòng, vả lại trước đây cũng chưa từng có tiền lệ phong một lúc hai vị Quý phi. Nhàn Quý phi Na Lạp thị chưa từng sinh dục, lại được cùng đồng thời tấn phong với Thuần Quý phi Tô thị là mẹ đẻ của hai vị Hoàng tử, khi sách phong thì Tô thị đã mang thai lần thứ ba, tư lịch lại thâm hậu, thế nhưng vị thứ của Tô thị luôn ở dưới Na Lạp thị một bậc.
Trong các hậu phi của Càn Long Đế khi còn ở tiềm để, thì Na Lạp thị vào Bảo Thân vương phủ là trễ nhất, cũng không có con cái, thế mà dần dần có thể đứng đầu chúng phi. Trừ đi Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao thị, thì Na Lạp thị lúc này trở thành vị Quý phi trẻ tuổi nhất chưa từng sinh hạ hoàng tự mà đạt được vị trí này.
Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Càn Long thứ 13 (1748), ngày 11 tháng 3 (âm lịch), Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu qua đời, ngôi vị Hoàng hậu do đó để trống.
Ngày 1 tháng 7 (âm lịch) cùng năm ấy, chỉ khoảng 4 tháng sau khi Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu mất, Càn Long Đế chính thức ra chỉ dụ tấn phong Nhàn Quý phi lên Hoàng quý phi, ban đặc ân hưởng mọi nghi lễ của Hoàng hậu, gọi là Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự (皇貴妃攝六宮事), chiếu cáo thiên hạ. Tuyên bố đợi khi mãn tang 3 năm sẽ chính thức sách lập Na Lạp thị làm Hoàng hậu.
Trong đoạn chiếu cáo thiên hạ sách lập Na Lạp thị, Càn Long Đế có viết đoạn:
“ |
Trẫm cung nhiều việc. Cần lao thức khuya dậy sớm. Cung đình nội chính, đều cậy Hiếu Hiền hoàng hậu tổng lý. Hoàng Hậu thượng hầu Thánh Mẫu Hoàng thái hậu. Thừa hoan sớm chiều. Thuần hiếu tính thành. Mà trị sự tinh tường. Nặng nhẹ khéo léo. Từ phi tần đến cung nhân, đều bị phụng hóa cảm ân, vui lòng phục tùng. Mười năm hơn đến nay, trẫm có thể chuyên tâm quốc sự. Đến nỗi có thời gian rảnh mà thong dong, cũng là nhờ vào công lao của Hoàng hậu. Nay phụng Hoàng thái hậu ý chỉ. Hoàng Hậu mẫu nghi thiên hạ, là căn bản của nhật nguyệt, là căn cơ của thiên địa. Hoàng đế tuổi xuân đang độ, nội trị cần người phụ giúp. Nhàn Quý phi Na Lạp thị, là Trắc thất phi mà Hoàng khảo ban tặng khi xưa. Nàng rất đoan trang huệ hạ, nay ứng làm theo quy tắc của Thánh Tổ, lấy Nhàn Quý phi Na Lạp thị kế vị Khôn Ninh, cũng để an ủi trong lòng Hoàng đế. Khảo điển cố của Minh Thái Tổ Thục phi Lý thị, Ninh phi Quách thị, lần lượt Nhiếp lục cung sự. Quốc triều Thuận Trị năm thứ 13, sách lập Hoàng quý phi. Hoàng tằng tổ Thế Tổ Chương hoàng đế thăng điện ra mệnh ban chiếu thiên hạ. Điển chí sùng trọng. Đến nay chiếu theo lệ cũ. Sách mệnh Nhàn Quý phi Na Lạp thị làm Hoàng quý phi nhiếp lục cung sự. Nàng hãy chỉnh túc khổn nghi. Thượng phụng Thánh mẫu. Tương trợ trẫm cung. Đoan mẫu mực mà nhạ hưu tường, thuận thành nội trị, có kỳ vọng cao. Sở hữu ứng hành điển lễ. Đại học sĩ sẽ cùng Lễ Bộ, Nội vụ phủ tường nghị, cùng tra mà thiết lập Hoàng quý phi sắc phong đại điển. Vương phi mệnh phụ hành lễ, đã thành công lệ. Duy chỗ Quý phi hành lễ, là chưa từng có, thế nhưng Hoàng quý phi nhận mệnh thừa hành Lục cung sự, sau 27 tháng tất sẽ kế vị Trung cung. Đã thống lý nội chính, thể chế do vậy cũng nên tôn sùng. Quý phi cũng nên nhất thể hành lễ. Trước một ngày sắc phong, khiển quan tế cáo Thái Miếu, Phụng Tiên điện để tế cáo nghi thức tế lễ. Thượng thân nghệ cử hành (Hoàng đế sẽ đích thân làm chủ tế mọi chuyện này) |
” |
— Tuyên cáo Hoàng quý phi nhiếp lục cung sự đại điển lễ[8] |
Ngày 5 tháng 4 sang năm (1749), lấy Đại học sĩ Lai Bảo (來保) làm Chính sứ, Lễ bộ Thượng thư Hải Vọng (海望) làm Phó sứ, chính thức tiến hành đại lễ sắc phong Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự. Sách văn rằng:
“ |
朕惟基化必资于内治。宫庭之模范当崇。从宜适协于成规。名位之优隆惟允。稽徽章而具在。重慈命之钦承。咨尔娴贵妃那拉氏、早毓名门。素娴内则。赐从潜邸。久昭婉顺之仪。晋锡荣封。克佐肃雍之化。端庄表度。锵雅韵于珩璜。恪谨持躬。着芳规于翟舀。兹以坤宁之虚位。屡烦圣母之萦怀。选继体于后宫。时加注意。命嗣音于椒殿。每切谕言。朕曲体圣衷。追踪家法。虽母仪俪极。事有待于将来。而阃职总持。典宜隆于此日。恭奉皇太后慈命。以册宝封尔为皇贵妃摄六宫事。尔其只承懿训。益懋壸仪。奉长乐之春晖。勖夏凊冬温之节。统掖庭之内政。赞宵衣旰食之勤。端令范以率先。顺成是望。迓鸿庥而受祉。福履方绥。敬绍前徽。用光显命。钦哉。 ... Trẫm duy cơ hóa tất tư vu nội trị. Cung đình chi mô phạm đương sùng. Tòng nghi thích hiệp vu thành quy. Danh vị chi ưu long duy duẫn. Kê huy chương nhi cụ tại. Trọng từ mệnh chi khâm thừa. Tư nhĩ Nhàn Quý phi Na Lạp thị, tảo dục danh môn. Tố nhàn nội tắc. Tứ tòng tiềm để. Cửu chiêu uyển thuận chi nghi. Tấn tích vinh phong. Khắc tá túc ung chi hóa. Đoan trang biểu độ. Thương nhã vận vu hành hoàng. Khác cẩn trì cung. Trứ phương quy vu địch yểu. Tư dĩ khôn ninh chi hư vị. Lũ phiền Thánh mẫu chi oanh hoài. Tuyển kế thể vu hậu cung. Thời gia chú ý. Mệnh tự âm vu tiêu điện. Mỗi thiết dụ ngôn. Trẫm khúc thể thánh trung. Truy tung gia pháp. Tuy mẫu nghi lệ cực. Sự hữu đãi vu tương lai. Nhi khổn chức tổng trì. Điển nghi long vu thử nhật. Cung phụng Hoàng thái hậu từ mệnh, dĩ sách bảo phong nhĩ vi Hoàng quý phi nhiếp lục cung sự. Nhĩ kỳ chỉ thừa ý huấn. Ích mậu khổn nghi. Phụng trường nhạc chi xuân huy. Úc hạ sảnh đông ôn chi tiết. Thống dịch đình chi nội chính. Tán tiêu y cán thực chi cần. Đoan lệnh phạm dĩ suất tiên. Thuận thành thị vọng. Nhạ hồng hưu nhi thụ chỉ. Phúc lí phương tuy. Kính thiệu tiền huy. Dụng quang hiển mệnh. Khâm tai. |
” |
— Sách văn Càn Long Đế tấn phong Nhàn Quý phi làm Hoàng quý phi nhiếp lục cung sự |
Theo đó, địa vị Hoàng quý phi của bà không giống Hoàng quý phi bình thường, mà đều tương đồng với Hoàng hậu như cử hành tế cáo Thái Miếu, Phụng Tiên điện do đích thân Càn Long Đế chủ lễ. Cùng năm đó, Thục Gia Hoàng quý phi Kim thị được lên Quý phi, các phi tần khác như Lệnh Ý Hoàng quý phi cũng đều thăng lên 1 cấp, nhưng lễ tế cáo Thái Miếu, Phụng Tiên điện của các phi tần kia đều được cử hành khác ngày, còn lễ của Hoàng quý phi Na Lạp thị lại riêng hẳn 1 ngày. Đây là một đại lễ rất đáng chú ý, bởi vì nhà Thanh khi sắc phong phi tần tập thể như vậy, đều cử hành tế cáo chung 1 ngày, chỉ duy có Hoàng hậu là sẽ dùng lễ khác riêng mà thôi, điều này cho thấy địa vị rất đặc biệt của Na Lạp thị khi ấy[9]. Càn Long Đế còn ban chỉ dụ chiếu cáo thiên hạ sắc phong Hoàng quý phi, theo quy chế cổ đến nhà Thanh, thì chỉ có lập Hoàng hậu và lập Thái tử mới ban chiếu cáo thiên hạ. Căn cứ theo Khâm định Đại Thanh hội điển tắc lệ (钦定大清会典则例) hoàn thành vào năm Càn Long thứ 29 (1764), khi phong Na Lạp thị làm "Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự", Càn Long Đế đã dùng chữ [Sách lập; 册立] dành cho Hoàng hậu, thay vì [Sách phong; 册封] dành cho một phi tần, các sách về sau mới dần sửa thành "phong", như sách văn phía trên là được ghi theo Hội điển được soạn vào thời Gia Khánh Đế[10]. Ngoài ra theo điển chế nhà Thanh, Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi Na Lạp thị là vị Hoàng quý phi đầu tiên được dùng màu [Minh hoàng sắc; 明黄色] - loại màu vàng tươi sáng mà trước đó chỉ được dùng bởi Hoàng thái hậu, Hoàng đế cùng Hoàng hậu. Từ đó về sau, việc Hoàng quý phi triều Thanh có phẩm phục mang màu vàng này mới thành điển lệ.
Bên cạnh những đãi ngộ đặc thù trên, Hoàng quý phi Na Lạp thị còn được hưởng hành lễ và biểu dâng. Ngày hôm sách lập Nhiếp Lục cung sự Hoàng quý phi, đồng thời cử hành lễ ăn mừng dâng tôn hiệu cho Sùng Khánh Hoàng thái hậu, Hoàng đế nhân dịp sách lập Na lạp thị mà lần nữa ban chiếu cáo thiên hạ, trong chiếu thư có 18 hạng mục lớn nhỏ, bao gồm quan trọng nhất là khiển quan tế cáo Sông, Núi cùng Thần linh và Lịch đại đế vương trong các thần miếu. Buổi lễ sách lập tổ chức theo quy mô lập Hậu, do đó có đại lễ khánh hạ, triệu tập Tần phi cùng Công chúa, Phúc tấn và Cáo mệnh phu nhân trật Tam phẩm trở lên đều vào Giao Thái điện hướng đến Hoàng quý phi hành đại lễ Lục túc tam quỳ tam bái. Còn các Vương công đại thần, Văn võ bá quan mặc áo Mãng bào chúc mừng tại Thái Hòa điện. Những thứ này đều là tiêu chuẩn lễ ngộ của Hoàng hậu[11]. Ngoài ra, sinh thần của bà cũng được chiếu theo lệ của Hoàng hậu mà cử hành[12].
Tuy từ trước đó Đổng Ngạc phi cùng Hiếu Ý Nhân hoàng hậu giữ vị trí Hoàng quý phi trong nhiều năm, có nhiều đặc quyền, song chữ "Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự" chỉ xuất hiện vào thời điểm này khi Càn Long Đế muốn phong Na Lạp thị, tạo nên một danh hiệu chưa từng có, hơn nữa đại lễ sách phong mà Na Lạp thị được hưởng cũng đều khác xa so với hai vị kia, chỉ có một điểm mà Đổng Ngạc phi hơn được Na Lạp thị ấy chính là việc Thuận Trị Đế thực hiện đại xá. Về sau, chỉ có Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu mới có được danh hiệu này, nhưng đại lễ sắc phong và việc chiếu cáo thiên hạ của Hiếu Toàn Thành Hoàng hậu đều bị gộp chung khi tổ chức sách lập Hoàng hậu.
Kế vị Hoàng hậu[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Càn Long thứ 15 (1750), ngày 2 tháng 8, lấy Đại học sĩ Phó Hằng làm Chính sứ, Đại học sĩ Sử Di Trực làm Phó sứ, tuyên sách lập Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi Na Lạp thị trở thành Hoàng hậu. Khoảng thời gian này bà chủ yếu sống ở Dực Khôn cung (翊坤宮). Sách văn viết:
“ |
朕惟乾始必赖乎坤成健顺之功以备。外治恒资于内职。家邦之化斯隆。惟中阃之久虚。宜鸿仪之肇举。爰稽茂典用协彝章咨尔摄六宫事皇贵妃那拉氏。秀毓名门。祥钟世德。早从潜邸。含章而懋着芳型。晋锡荣封。受祉而克娴内则。噙躬淑慎洵堪继美于兰帏。秉德温恭。信可嗣音于椒殿往者统六宫而摄职。从宜一准前规。今兹阅三载而届期。成礼式遵慈谕。恭奉崇庆慈宣康惠皇太后命。以金册金宝立尔为皇后。尔其只承懿训。表正掖庭。虔修温凊之仪。洽观心于长乐。勉效苹蘩之职。端礼法于深宫。逮螽斯樛木之仁恩。永绥后福。覃茧馆鞠衣之德教。敬绍前徽。显命有光。鸿庥滋至钦哉。 ... Trẫm duy càn thủy tất lại hồ khôn thành kiện thuận chi công dĩ bị. Ngoại trị hằng tư vu nội chức. Gia bang chi hóa tư long. Duy trung khổn chi cửu hư. Nghi hồng nghi chi triệu cử. Viên kê mậu điển dụng hiệp di chương. Tư nhĩ Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi Na Lạp thị. Tú dục danh môn, tường chung thế đức. Tảo tòng tiềm để, hàm chương nhi mậu trứ phương hình. Tấn tích vinh phong. Thụ chỉ nhi khắc nhàn nội tắc. Cầm cung thục thận tuân kham kế mỹ vu lan vi. Bỉnh đức ôn cung. Tín khả tự âm vu tiêu điện vãng giả thống lục cung nhi nhiếp chức. Tòng nghi nhất chuẩn tiền quy. Kim tư duyệt tam tái nhi giới kỳ. Thành lễ thức tuân từ dụ. Cung phụng Sùng Khánh Từ Tuyên Khang Huệ Hoàng thái hậu mệnh, dĩ kim sách kim bảo, lập nhĩ vi Hoàng hậu. Nhĩ kỳ chỉ thừa ý huấn. Biểu chính dịch đình. Kiền tu ôn sảnh chi nghi. Hiệp quan tâm vu trường nhạc. Miễn hiệu bình phiền chi chức. Đoan lễ pháp vu thâm cung. Đãi chung tư cù mộc chi nhân ân. Vĩnh tuy hậu phúc. Đàm kiển quán cúc y chi đức giáo. Kính thiệu tiền huy. Hiển mệnh hữu quang. Hồng hưu tư chí khâm tai. |
” |
— Sách lập Na Lạp thị làm Hoàng hậu |
Bấy giờ, Hoàng hậu Na Lạp thị được Càn Long Đế rất sủng ái, thực sự xuân phong đắc ý, vinh quang phi thường.
Từ khi được tấn dụ làm Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi năm Càn Long thứ 13, vào ngày 30 tháng 7 (âm lịch) cùng năm, gia đình bà đã nhập Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, còn đạt được đặc phong tước vị [Thừa Ân hầu; 承恩侯]. Đến khi vừa lập làm Hoàng hậu, cha bà được phong làm [Nhất đẳng Thừa Ân công; 一等承恩公], mẹ bà trở thành Thừa Ân công phu nhân. Cháu trai bà Nạp Tô Khẳng, trước đó vào ngày 11 tháng 4 (âm lịch) trong năm ấy, chỉ tầm 1 tháng sau khi Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu qua đời, đã được Càn Long Đế phong cho chức Càn Thanh môn thị vệ, khi Na Lạp hoàng hậu trở thành Hoàng hậu, thì được tiếp nhận tước vị [Nhất đẳng hầu; 一等侯], thế tập truyền đời.
Hoàng hậu Na Lạp thị từ vị tần phi, tuy hơn 30 chưa sinh dục, khai chi tán diệp cho hoàng thất nhưng được phong làm Hoàng hậu, hơn nữa từng dùng Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi có địa vị cùng thiện đãi tương đương Hoàng hậu, có thể thấy là tương đối hiếm trong lịch sử nhà Thanh. Nếu không phải vì năng lực được Sùng Khánh hoàng thái hậu bảo chứng, thì cũng là vì Càn Long Đế đặc biệt coi trọng bà. Na Lạp Hoàng hậu thường hay cùng Càn Long Đế bái yết Tông miếu, cùng ông ngao du Giang Nam, lên Ngũ Đài sơn thắp hương, tuần du Tây Nam, vinh sủng không ít.
Năm Càn Long thứ 17 (1752), ngày 25 tháng 4 (tức ngày 7 tháng 6 dương lịch), giờ Dần, Hoàng hậu sinh hạ Hoàng thập nhị tử Vĩnh Cơ. Sang năm sau, ngày 23 tháng 6 (tức ngày 23 tháng 8 dương lịch), giờ Dần, sinh hạ Hoàng ngũ nữ, nhưng mất khi lên 2 tuổi. Năm thứ 20 (1755), ngày 21 tháng 12 (tức ngày 2 tháng 1 năm 1756), giờ Mẹo, sinh hạ Hoàng thập tam tử Vĩnh Cảnh (永璟), cũng chết yểu vào năm sau.
Bên cạnh đó, Hoàng hậu Na Lạp thị là một trong số ít những người được Càn Long Đế tin tưởng mà giao cho việc chỉnh sửa y phục. Đó là ghi chép trong Xuyên đái đương (穿戴档), ghi nhận lại những chỉ dụ về việc dâng tiến và chỉnh sửa trang phục cho Hoàng đế. Năm Càn Long thứ 23, ngày 15 tháng 3, Hồ Thế Kiệt truyền chỉ, dẫn nguyên văn của Hoàng đế:“Cổ áo choàng hơi nhỏ, về đến hoàng cung, đưa cho Hoàng hậu sửa lại nhé”[13]. Hay như một lần khác, truyền chỉ mời Hoàng hậu làm thêm một cái túi Đông Châu để đeo thêm nữa[14].
Năm Càn Long thứ 28 (1763), ngày 18 tháng 5, Càn Long Đế thân đến Nhiệt Hà chơi, đi theo có Kế hoàng hậu, ngoài ra còn có Dĩnh phi, Khánh phi, Hãn tần, Dự tần, Thận tần, Dung tần và Tân Thường tại[15]. Tại đây Hoàng đế cho vẽ bức Càn Long cung trung hành lạc đồ (乾隆宫中行乐图), đằng sau có câu thơ rằng:
|
|
Ý thơ rằng, Càn Long Đế trung niên thưởng lãm, mặc đồ người Hán, nhưng so với các Hoàng đế Nhà Hán lại thêm uy phong, vì Hán Hoàng phải gả Vương Chiêu Quân (tức Minh phi) để yên bờ cõi. Đặc biệt, Càn Long Đế còn khen Na Lạp Hoàng hậu tuy đã gần 50 tuổi còn đẹp hơn cả Vương Chiêu Quân, dựa vào câu Yên thị lai bị cửu tần liệt, giác thắng Minh phi xuất tắc đồ (閼氏來備九嬪列,較勝明妃齣塞圖). Danh từ Yên thị (閼氏), hay Yên chi, là chính thất của một Thiền vu người Hung Nô.
Đế-Hậu bất hòa[sửa | sửa mã nguồn]
Nam Tuần sinh chuyện[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Càn Long thứ 30 (1765), tháng 1, Na Lạp Hoàng hậu đi cùng Càn Long Đế trong lần du hành xuống phương Nam lần thứ 4, còn có 5 vị phi tần khác là Lệnh Quý phi Ngụy thị, Khánh phi Lục thị, Dung tần Hòa Trác thị, Vĩnh Thường tại Uông thị và Ninh Thường tại[16]. Đoàn du hành đi qua Dương Châu, Tô Châu, Giang Ninh trong vỏn vẹn một tháng trời.
Trong chuyến tuần du này, hết thảy mọi việc đều diễn ra bình thường, Càn Long Đế vẫn còn rất sủng ái Hoàng hậu, ngày 18 tháng 1 ra chỉ thưởng đồ ăn cho Hoàng hậu (mà không ra chỉ thưởng cho 5 vị cung phi kia)[17], ngày 9 tháng 2 khi Khánh phi dâng món ăn thì Càn Long Đế ra chỉ dụ tặng cho Hoàng hậu[18], thậm chí Càn Long Đế còn tổ chức buổi tiệc sinh nhật linh đình cho bà (tức ngày 10 tháng 2), năm đó vừa 48 tuổi. Sang ngày 14 tháng 2, tại hành cung Tây Hồ, truyền phủ dịch Tô Châu làm món gà ngũ vị hương nấu tổ yến cho Hoàng hậu[19].
Đến ngày 18 tháng 2, đoàn Nam tuần đã đến Hàng Châu, ngay khi trời sáng thì Càn Long Đế sai người gửi thức ăn đến cho Hoàng hậu, đặc biệt là trước khi ăn lẫn sau khi ăn đều có chỉ dụ ban thưởng cho bà[20]. Nhưng vào buổi cơm tối hôm đó, bà không lộ diện ăn cùng ông mà chỉ có 5 vị cung phi trên. Về sau, cho đến tận khi kết thúc Nam tuần, Hoàng hậu Na Lạp thị đều không còn xuất hiện nữa. Sau này mới biết được, căn cứ Thượng dụ đương (上谕档) của triều Thanh[21], chính ngày 18 tháng 2 ấy, Càn Long Đế đã bí mật phái Ngạch phò Phúc Long An (福隆安), chồng của Hòa Thạc Hòa Gia công chúa, đích thân đưa Na Lạp Hoàng hậu về Bắc Kinh bằng đường thủy.
Phân lệ của Na Lạp hoàng hậu trong thời gian này vẫn giữ như cũ, tạm thời bị giam lỏng ở nơi bà sống là Dực Khôn cung.
Thu hồi sách bảo[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 4, sau khi đoàn Nam Tuần trở về, Càn Long Đế bắt đầu cắt giảm cung phân của Na Lạp Hoàng hậu. Đến ngày 14 tháng 5 cùng năm, Càn Long Đế ra chỉ dụ thu hồi 4 kim sách đã ban cho bà trước đây; tức là kim sách của [Hoàng hậu], [Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi], [Nhàn Quý phi] và [Nhàn phi]. Bên cạnh đó, Hoàng đế còn từng bước cắt giảm số cung nữ theo hầu bà, và đến tháng 7 thì chỉ còn có hai người cung nữ bên cạnh Hoàng hậu, nhưng Hoàng đế vẫn giữ lại 10 Thái giám có nhiệm vụ giám sát.
Năm Càn Long thứ 31 (1766), ngày 14 tháng 7 (âm lịch), giờ Mùi, Hoàng hậu Na Lạp thị qua đời tại Vĩnh Hoà cung, chung niên 49 tuổi. Khi bà mất, Càn Long Đế đang ở Mộc Lang Vi Trường (木蘭圍場) săn thú.
Ngày hôm sau (15 tháng 7), Càn Long Đế ra chỉ dụ, đại khái ý tứ như sau:
“ |
据留京办事王大臣奏,皇后于本月十四日未时薨逝。皇后自册立以来尚无失德。去年春,朕恭奉皇太后巡幸江浙,正承欢洽庆之时,皇后性忽改常,于皇太后前不能恪尽孝道。比至杭州,则举动尤乖正理,迹类疯迷。因令先程回京,在宫调摄。经今一载余,病势日剧,遂尔奄逝。此实皇后福分浅薄,不能仰承圣母慈眷、长受朕恩礼所致。若论其行事乖违,即予以废黜亦理所当然。朕仍存其名号,已为格外优容。但饰终典礼,不便复循孝贤皇后大事办理。所有丧仪,只可照皇贵妃例行,交内务府大臣承办。著将此宣谕中外知之。 ... Theo lưu kinh bạn sự vương đại thần tấu, Hoàng hậu mất (hoăng; 薨) vào giờ Mùi ngày 14 tháng này, Hoàng hậu tự sắc lập tới nay, chưa từng làm gì sai trái. Mùa xuân năm trước, trẫm cung phụng Hoàng thái hậu tuần du Giang Chiết, đúng ra là việc vui mừng, nhưng Hoàng hậu tính khí thay đổi, không thể giữ hiếu đạo với Thái hậu. Khi đến Hàng Châu, hành động sai trái, cử chỉ điên loạn. Vì vậy trước lệnh cho Hoàng hậu hồi kinh, ở trong cung hối lỗi. Sau Hoàng hậu phát bệnh, ngày càng nguy kịch, mất đi tính mạng. Việc này là do Hoàng hậu phúc phận nông cạn, không thể dựa vào Thánh mẫu từ quyến, cũng là do Trẫm thường ban cho ân lễ mà gây ra. Luận việc Hoàng hậu hành sự thất thường như vậy, đương nhiên có thể phế truất, nhưng trẫm vẫn giữ lại vị hào đã là phá lệ rộng rãi. Về tang lễ, tất nhiên không thể cứ theo Hiếu Hiền hoàng hậu mà xử lý, nên lấy Hoàng quý phi an táng mà làm, giao cho Nội vụ phủ đại thần gánh vác. Hãy đem chỉ dụ này ban hành. |
” |
— Càn Long năm thứ 31, chỉ dụ ngày 15 tháng 7[22] |
Nhìn chung, Càn Long Đế ý nói Na Lạp Hoàng hậu qua đời là do không có phúc phận, không tiện cử hành đại tang như Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu năm xưa, nên dụ cho Nội vụ phủ tiến hành an táng theo nghi thức dành cho Hoàng quý phi, vào Phi viên tẩm của Dụ lăng, chôn vào Minh lâu to nhất trong viên tẩm, bên cạnh quan tài của Thuần Huệ Hoàng quý phi. Gia đình Huy Phát Na Lạp thị khi Na Lạp Hoàng hậu thất sủng cũng bị cưỡng chế đổi trở lại thành Mãn Châu Tương Lam kỳ, tước vị "Thế quản Tá lĩnh" cũng bị tước bỏ, đổi lại thành "Công trung Tá lĩnh". Gia đình của Hoàng hậu từ đó trở nên xuống dốc.
Hậu táng sơ sài[sửa | sửa mã nguồn]
Khi Càn Long biết tin Na Lạp Hoàng hậu tạ thế, thì ông đang đi săn ở Mộc Lang Vi Trường. Ông không hề sửng sốt cũng như dừng cuộc đi săn lại, mà chỉ để con trai Hoàng hậu là Hoàng thập nhị tử Vĩnh Cơ trở về Bắc Kinh chịu tang, rồi tiếp tục đi săn thú. Qua ngày hôm sau, ông mới ra chỉ dụ an táng Na Lạp Hoàng hậu theo nghi thức Hoàng quý phi.
Ngày 28 tháng 9 cùng năm, táng vào Minh lâu của Phi viên tẩm trong Dụ lăng.
Theo chỉ dụ của Càn Long Đế, Na Lạp Hoàng hậu chỉ được hưởng tang lễ như một vị Hoàng quý phi, nhưng thực tế còn tệ hơn. Trong tang lễ của một Hoàng quý phi; công chúa, các mệnh phụ phu nhân và một số quan lại đại thần được yêu cầu vào viếng tang, nhưng tang lễ của Na Lạp Hoàng hậu thì không có.
Với danh vị thấp nhất là Phi mà bà từng thụ phong thì bà phải có lăng mộ riêng, tuy nhiên bà chỉ được an táng bên trong Minh lâu, nơi vốn là mộ riêng của Thuần Huệ Hoàng quý phi. Đường đường Hoàng hậu Đại Thanh, bây giờ lại còn phải ở chung mộ phần với một Hoàng quý phi. Theo Đại Thanh hội điển, quan tài Hoàng quý phi là "Tử mộc" (梓木), 35 đạo, khiên bởi 96 người, nhưng theo tài liệu Nội vụ phủ ghi được thì quan tài của Na Lạp hoàng hậu là "Sam mộc" (杉木), khiên phu 64 người, chỉ là tang nghi thuộc bậc Tần mà thôi. Mặt khác, Hoàng quý phi, Quý phi và Phi thì ít nhất bà phải có bài vị và mộ phần, cung phóng tại trong viên tẩm hưởng điện, tế lễ thì tại điện nội cử hành, chỉ có Tần trở xuống không có thần bài. Nay thì Na Lạp Hoàng hậu không có bài vị, chôn chung vào mộ Thuần Huệ Hoàng quý phi, nhập táng về sau cũng không đề cập tới. Căn cứ Nội vụ Phủ hồ sơ ghi lại, toàn bộ tang sự chỉ dùng 890 lượng 10 phân 9 li bạc.[23]
Cái chết của bà không được cáo phát chính thức trước triều đình, nên hầu như rất ít người biết được, về sau người ta mới biết và hồ nghi về nguyên nhân bà chết, thì Càn Long Đế mới ra chỉ dụ giải thích qua loa. Hơn nữa, trong chỉ dụ mà Càn Long Đế phát ra, ông sử dụng việc bà qua đời lại dùng Hoăng (薨), mà không phải Băng (崩) chuyên dùng cho Đế-Hậu, dù sách Thanh sử cảo về sau vẫn dùng Băng cho bà. Họa sĩ Lang Thế Ninh vào năm Càn Long nguyên niên từng vào triều phụng mệnh vẽ chân dung Hoàng đế, Hoàng hậu và Phi tần. Ta có thể thấy tần phi phẩm phục đều được vẽ, ghi chú đàng hoàng, hẳn là phải có chân dung Na Lạp Hoàng hậu khi còn là Nhàn phi. Hơn nữa khi bà làm Hoàng hậu, tất phải có họa tượng mặc Triều bào toàn thân, thế nhưng tất cả tranh vật như vậy về bà hiện không có, rất có thể khi Na Lạp Hoàng hậu bị thất sủng thì Càn Long Đế đã hủy tranh, thậm chí là bất kì tranh có khuôn mặt bà cũng bị sửa.
Hiện nay bức tranh cho là bà vốn là một bức họa vô danh được trưng bày tại Bảo tàng Nghệ thuật Dole của Pháp,[24] từng nói là Thục Gia Hoàng quý phi khi còn trẻ. Nhưng xét ra trong loạt tranh Tâm tả trị bình (心写治平), loạt tranh chân dung còn khá nguyên vẹn về Càn Long Đế cùng tần phi hồi trẻ cũng có một bức hoạ Gia phi, thì lại không khớp như vậy. Hơn nữa trong loạt tranh của Tâm tả trị bình đều có ghi rõ địa vị từng người, mà tranh này thủ pháp tương tự loạt Tâm tả trị bình nhưng lại không hề xuất hiện cùng loạt tranh ấy. Ngoài ra cũng có suy đoán bức hoạ này là của Vương Trí Thành sở hoạ. Người trong tranh mặc trang phục Tần vị, Kim thị từ Gia tần tiến Gia phi chỉ cách 4 năm, dung mạo khó có thể thay đổi nhanh chóng như vậy. Na Lạp Hoàng hậu cũng chưa từng trải qua Tần vị, nên cũng khó có thể khẳng định đây là hình vẽ của bà mà nhiều khả năng là Du Quý phi hoặc Thư phi khi còn trẻ.
Từ Kế trong cách gọi không phải thụy hiệu của bà, mà có nghĩa là Hoàng hậu kế tiếp của Hoàng đế. Bà được biết đến là Hoàng hậu duy nhất của nhà Thanh không được truy phong thụy hiệu sau khi qua đời.
Tương quan[sửa | sửa mã nguồn]
Từ khi là Phi, Na Lạp thị đã có những điểm đặc thù nhất định thể hiện việc Càn Long Đế tương đối coi trọng bà. Căn cứ hồ sơ hiện có, Na Lạp thị trở thành Trắc Phúc tấn là thời điểm tháng 8 năm Ung Chính thứ 12, vỏn vẹn 1 năm đến lúc Càn Long Đế đăng cơ. Trước đó, Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao thị, do có gia thế đã được Ung Chính Đế chỉ định làm Trắc Phúc tấn, dĩ nhiên Na Lạp thị ở vị trí Trắc Phúc tấn thứ hai - vị thứ có khác biệt. Địa vị trước sau, đối với hoạch định nhà nề nếp xưa đã rất là quan trọng, chứ không cần nói đến hoàng tộc. Ở đây, Na Lạp thị hiển nhiên khi đại phong phải xếp dưới Cao thị, nhưng vị thứ khi còn ở tiềm để của bà cũng đủ để bà có được tước Phi, đứng hàng thứ ba chỉ sau Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu và Tuệ Hiền Hoàng quý phi.
Rồi thời điểm Tuệ Hiền Hoàng quý phi qua đời, chính là lúc Na Lạp thị lộ rõ được quan tâm nhiều hơn. Chỉ chưa đầy một tháng sau, Càn Long Đế đã cho nâng đãi ngộ vị Quý phi của Na Lạp thị cùng Tô thị cao hơn so với Tuệ Hiền Hoàng quý phi vừa mới qua đời. Rồi đến khi Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu qua đời, chưa tới một năm mà Na Lạp thị đã được tuyên bố [Người kế vị Trung Cung], lại còn được nhận danh vị chưa từng có là [Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự], buổi lễ sách phong y hệt chuẩn Hoàng hậu. Không chỉ dừng lại ở đó, Càn Long Đế còn cho sửa sang Nghi trượng tăng lên rất nhiều: tổng 58 kiện, trong khi theo quy chế cũ thì Hoàng hậu chỉ mới 55 kiện. Vì lý do này mà Càn Long Đế quyết định tăng cho Hoàng hậu và Hoàng thái hậu về sau lên 77 kiện. Đến khi lên Hoàng hậu, vinh quang của Na Lạp thị không giảm. Bà thường cùng Càn Long Đế thực hiện các chuyến công du, khi ở độ tuổi trung niên lại sinh hạ liền hai vị Hoàng tử và một vị Công chúa. Cuộc đời của bà đột ngột thay đổi khi xảy ra chuyện trong chuyến Nam Tuần năm ấy. Cách năm, Na Lạp hoàng hậu liền bạo băng, nhưng Càn Long Đế lại chỉ dùng nghi lễ Hoàng quý phi hạ táng, còn với một quy cách thấp hơn.
Cũng bởi vì lẽ ấy, khi nghe chiếu dụ thực hiện tang lễ cho Na Lạp Hoàng hậu, có Ngự sử Lý Ngọc Minh (李玉鸣) bất bình, đã cầu xin Càn Long Đế hãy tổ chức tang lễ xứng với địa vị Hoàng hậu của bà. Kết quả, ông bị đày ra biên cương[25]. Tuy nhiên việc đó cũng không làm chấm dứt sự bất bình của triều đình đối với việc làm của Hoàng đế. Điều đặc biệt là không chỉ triều đình, đến người trong hoàng tộc họ Giác La thị và ngay cả trong dân gian, nhất là vùng Giang Nam, vẫn liên tục phỏng đoán vụ việc này, tất cả đều đả kích việc làm của Càn Long Đế.
Khoảng 12 năm sau, năm Càn Long thứ 43 (1778), lại có người dâng thư thỉnh Hoàng đế cử hành hậu sự cho Na Lạp Hoàng hậu, việc này khiến Càn Long Đế bắt buộc phải ra chiếu dụ giải thích:
“ | 孝贤皇后崩逝时,因那拉氏本系朕青宫时皇考所赐之侧室福晋,位次相当,遂奏闻圣母皇太后,册为皇贵妃、摄六宫事。又越三年,乃册立为后。其后自获过愆,朕仍优容如故。乃至自行翦发,则国俗所最忌者,而彼竟悍然不顾。然朕犹曲予包含,不行废斥。后因病薨逝,只令减其仪文,并未降明旨削其位号。朕处此事,实为仁至义尽。且其立也,循序而进,并非以爱选色升。及其后自蹈非理,更非因色衰爱弛 ... Từ khi Hiếu Hiền hoàng hậu qua đời đến nay, nhân Na Lạp thị là từ khi Trẫm ở Thanh Cung được Hoàng khảo ban làm Trắc thất Phúc tấn, vị thứ đương cao, bèn tấu lên Thánh mẫu Hoàng thái hậu, sách lập làm Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự. Sau 3 năm, sách lập làm Hoàng hậu. Về sau, (Hoàng hậu) tự mắc lỗi lầm, Trẫm vẫn rộng rãi như cũ. Nhưng rồi tự tiện cắt tóc, tức trái quốc tục cấm kị nhất, thế mà (Hoàng hậu) vẫn ngang nhiên không màng đến. Trẫm chỉ ra điều răn dạy, vì còn nghĩ ơn xưa, cũng không thể phế truất. Sau Hoàng hậu bạo băng, Trẫm chỉ giảm nghi văn an táng, vẫn chưa lột bỏ danh hiệu. Huống hồ về sau không lập Hoàng hậu, xử lý việc này trẫm thật là đã tận tình tận nghĩa. |
” |
— Càn Long năm thứ 43 chiếu dụ[26] |
Như vậy, lúc đó Na Lạp Hoàng hậu đã cắt tóc, mà theo phong tục Mãn Châu thì việc cắt tóc chỉ khi Hoàng đế hoặc Hoàng thái hậu mất, khép vào đại bất kính, đại bất hiếu, và việc Na Lạp Hoàng hậu cắt tóc như xúc phạm bề trên đã khiến Càn Long Đế nổi giận. Tuy nhiên, với một người xuất thân Mãn Châu Bát Kỳ như Na Lạp Hoàng hậu lại không biết điều cấm kỵ này mà phạm phải? Hơn nữa, khi này là do nhân gian đả kích việc Hoàng đế bạc bẽo Na Lạp hoàng hậu đang ở cao trào, mà hơn 10 năm sau khi Na Lạp Hoàng hậu qua đời thì Càn Long Đế mới ra chỉ giải thích, thật giả khó kiểm chứng được.
Tuy vậy, theo lá thư mà Càn Long Đế viết cho cháu trai bà sau sự việc năm đó, thì có lẽ thực sự Na Lạp Hoàng hậu vào lúc đó chính xác đã cắt tóc vì muốn xuất gia. Vấn đề ở đây là, Hoàng hậu Na Lạp thị từ khi ở Tiềm để đến khi vào sống trong hậu cung hơn 30 năm, làm Hoàng hậu 15 năm, luôn ôn nhu uyển thuận, cẩn thận sáng suốt, đến cuối cùng vì việc gì mà Na Lạp Hoàng hậu đến quốc tục tối kị cũng không màng mà cắt tóc xuất gia? Nguyên do bà cắt tóc xuất gia đến nay vẫn còn là câu hỏi lớn, đến bản thân Càn Long Đế trong chiếu dụ giám sát Hoàng hậu vào năm đó cũng cho thấy sự mơ hồ của chính bản thân ông trong sự việc này.
Dân gian đồn đại[sửa | sửa mã nguồn]
Chính điều này đã làm dấy lên nhiều phỏng đoán nghi vấn. Giả thiết được lưu truyền nhiều nhất, là do Na Lạp Hoàng hậu phản đối việc Càn Long Đế xuống Giang Nam vi hành, cho rằng ông chỉ xuống để tìm người đẹp để nhập cung, được gọi là Giang Nam liệp diễm (江南猎艳).
Trong lịch sử, Càn Long Đế cũng như Khang Hi Đế rất tích cực Nam tuần, không chỉ vì cảnh đẹp Giang Nam, mà còn vì ở đây nổi tiếng nhiều mỹ nữ như hoa như ngọc. Trong truyền thuyết, khi Nam tuần thì Càn Long Đế từng đến Thanh Phố, Hoài An và sủng hạnh một vài con hát xinh đẹp. Có một con hát tên Tuyết Như (雪如), nhan sắc xinh đẹp, chuyên câu dẫn nam nhân đã khiến Hoàng đế vui thích bằng dáng vẻ chiều chuộng, kỹ năng phòng the cao nên rất được Hoàng đế chiếu cố. Xong việc, nàng còn được Hoàng đế ban cho rất nhiều thứ như ngọc như ý, trân châu, trâm cài đều tinh xảo. Trên bả vai Tuyết Như có thêu một hình Tiểu đoàn long, nhiều người diễn giải rằng do Hoàng đế hay vuốt ve bả vai nàng, nên lệnh cho đặc biệt thêu lên một hình Tiểu long, mang ý sủng dị. Na Lạp Hoàng hậu cư nhiên không biết chuyện này. Khi cả đoàn đến Hàng Châu, Càn Long Đế nổi hứng mặc Thường phục, cải trang làm du khách ăn chơi lên phố, hòng tiếp tục tìm kiếm người đẹp. Na Lạp Hoàng hậu biết được thì bàng hoàng phản đối, thậm chí khóc lóc khuyên can, Càn Long Đế không nghe, thậm chí chửi mắng Hoàng hậu tinh thần không ổn, nên mới bí mật đem bà hồi kinh.
Một truyền thuyết nữa nói rằng, Na Lạp hoàng hậu cùng Càn Long Đế thực hiện chuyến Nam tuần năm thứ 30, khi đến Kim Lăng, Hoàng đế cùng với đám thần tử sủng ái chạy trên sông Tần Hoài tìm ca kỹ mua vui. Quan viên địa phương muốn lấy lòng Hoàng đế, đã cho sắp xếp một chiếc thuyền hoa tráng lệ, bên trên đầy những kỹ nữ tuổi trẻ mơn mởn, nhan sắc hồ mị, dáng điệu lẳng lơ nhảy múa ca hoan. Càn Long Đế đại hỷ, ban thưởng cho quan viên bọn họ, còn cùng các ca kỹ nghe hát nhạc dâm đến hết cả đêm. Hoàng hậu biết được chuyện này, vốn không thể nhẫn nhịn nữa, đã đem toàn bộ tóc cắt đi hết. Càn Long Đế trở về thì thấy sự tình, trách mắng Hoàng hậu vô phép thất đức, ghen tuông vô cớ, bèn sai người đưa Hoàng hậu về kinh sư, giam vào lãnh cung.
Ghi chép đương thời[sửa | sửa mã nguồn]
Ghi chép về Na Lạp hoàng hậu trong Thanh sử cảo:
“ |
皇后,烏喇那拉氏,佐領那爾布女。后事高宗潛邸,為側室福晉。乾隆二年,封嫻妃。十年,進貴妃。孝賢皇后崩,進皇貴妃,攝六宮事。十五年,冊為皇后。三十年,從上南巡,至杭州,忤上旨,后剪髮,上益不懌,令后先還京師。三十一年七月甲午,崩。上方幸木蘭,命喪儀視皇貴妃。自是遂不復立皇后。子二,永璂、永璟。女一,殤。 四十三年,上東巡,有金從善者,上書,首及建儲,次為立后。上因諭曰:「那拉氏本朕青宮時皇考所賜側室福晉,孝賢皇后崩後,循序進皇貴妃。越三年,立為后。其後自獲過愆,朕優容如故。國俗忌剪髮,而竟悍然不顧,朕猶包含不行廢斥。后以病薨,止令減其儀文,並未削其位號。朕處此仁至義盡,況自是不復繼立皇后。從善乃欲朕下詔罪己,朕有何罪當自責乎?從善又請立后,朕春秋六十有八,豈有復冊中宮之理?」下行在王大臣議從善罪,坐斬。 . Hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị, con gái Tá lĩnh Na Nhĩ Bố. Hầu Cao Tông khi ở Tiềm để, vị Trắc thất Phúc tấn. Năm Càn Long thứ 2, phong Nhàn phi. Năm thứ 10, tiến Quý phi. Hiếu Hiền hoàng hậu băng, tiến Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự. Năm thứ 15, sách lập Hoàng hậu. Năm thứ 30, Hậu tùy Hoàng thượng Nam tuần, đến Hàng Châu, trái ý của Thượng, Hậu cắt tóc, Thượng càng không vui, lệnh cho Hậu về kinh sư trước. Năm thứ 31, tháng 7, ngày Giáp Ngọ, băng. Thượng đang ở Mộc Lan, mệnh tang nghi đều theo Hoàng quý phi lễ. Từ đó Thượng không còn muốn lập Hoàng hậu nữa. Con trai có hai người: Vĩnh Cơ, Vĩnh Cảnh. Con gái một người, chết sớm. Năm thứ 43, Thượng đi Đông tuần, có người tên Kim Tùng Thiện dâng thư, một xin lập Trữ, sau đó xin lập Hậu. Thượng nhân đó nói:「Na Lạp thị là từ khi Trẫm ở Thanh Cung, đã được Hoàng khảo ban làm Trắc thất Phúc tấn. Sau khi Hiếu Hiền hoàng hậu băng, tuần tự tiến Hoàng quý phi. Qua 3 năm, lập làm Hậu. Về sau phạm tội, Trẫm đã ung dung như cũ. Quốc tục kỵ cắt tóc, mà Hậu thế nhưng ngang nhiên không màng, Trẫm hãy còn bao dung không phế mắng. Sau đó Hậu bạo hoăng[27], (Trẫm) lệnh giảm đi tang nghi, vẫn chưa tước đi vị hàm. Trẫm như vậy là đã tận tình tận nghĩa, huống hồ sau đó cũng không còn muốn lập Hoàng hậu nữa. Tùng Thiện muốn Trẫm hạ chiếu tự kể tội, mà Trẫm có tội gì để tự trách chăng? Mà Tùng Thiện lại thỉnh lập Hậu, nay Trẫm xuân thu đã 60 tuổi, lại còn có lý nào muốn sách lập Trung cung?」. Sau đó triệu Vương đại thần nghị tội Tùng Thiện, luận trảm. |
” |
— Phần viết Hoàng hậu Ô Lạp Na Lạp thị trong Thanh sử cảo[28] |
Chuyện Na Lạp hoàng hậu đột ngột bị giam cầm, được sứ giả người Triều Tiên là Hồng Đại Dung (홍대용), một học giả nổi tiếng ở Triều Tiên ghi lại với tâm thế rất bất bình thay cho Hoàng hậu. Ông từng sang triều Thanh làm sứ thần thời Càn Long, và đã ghi chép một số truyện trong cuốn Ngoại tập yến ký (外集燕记), ông từng ghi chép về sự kiện cấm túc Na Lạp hoàng hậu như sau:
“ |
是时。皇后见囚冷宫。朝野怨之。是年(乾隆三十一年)秋。果薨。以贵妃礼葬之。自凤城移咨于我国。盖闻昨年皇帝往关东打围。皇后从焉。失大珠一颗。宫中重宝也。帝疑之。大索。得之于典当铺。以为皇后侍卫官某人典银四百两。乃捕其人而鞫之。搜其身。衣缝中有一札。乃皇后手笔也。乃不复问。腰斩。皇后之得罪以此。而其实宫中有专宠者。设计而谮诬之云。 . . . Khi ấy Hoàng hậu bị giam ở lãnh cung, là chuyện khiến triều đình bất bình. Năm Càn Long thứ 31, mùa thu, Hoàng hậu qua đời, lấy lễ Quý phi hạ táng. Vốn năm Càn Long thứ 30, Hoàng đế đi Quan Đông săn thú, Hoàng Hậu cũng đi theo. Trong cung phát hiện trân bảo bị mất, là một viên đại châu. (Hoàng đế) ra lệnh khắp nơi tìm kiếm, cuối cùng tìm thấy tại 1 hiệu cầm đồ, điều tra ra là Thị vệ trong cung của Hoàng hậu đem viên đại châu bán lấy 400 lượng bạc, lại trên người Thị vệ này lục soát được giấy tờ có bút tích Hoàng hậu, cuối cùng Hoàng đế trảm Thị vệ ấy, còn Hoàng hậu vì vậy bị hạch tội. Kỳ thật, chuyện này không phải Hoàng hậu làm mà là trong cung có chuyên sủng phi tần thiết kế mưu kế vu hãm Hoàng hậu mà thôi! |
” |
— Ngoại tập yến ký - 外集燕记 |
Trong Văn tự ngục án cung từ (文字狱案供词) của Nghiêm Tăng (严譄), có nói rằng:
“ |
三十年皇上南巡,在江南路上,先送皇后回京。我那时在山西本籍,即闻得有此事。人家都说,皇上在江南要立一个妃子,纳皇后不依,因此挺触,将头发剪去。这个话说的人很多... 后来三十三年进京,又知道有御史因皇后身故,不曾颁诏。将礼部参奏,致被发遣之事。……心里妄想,若能将皇后的事进个折子,准行领诏,就可以留名不朽 ... Vào năm Càn Long thứ 30, Hoàng đế Nam tuần, đang ở trên đường đến Giang Nam, trước đó Hoàng hậu bị đưa về kinh sư. Tôi khi đó ở quê hương Sơn Tây, tức nghe được có việc này. Mọi người đều nói, Hoàng đế ở Giang Nam muốn lập phi tử, Hoàng hậu không thuận theo, bởi vậy rất xúc động đem tóc cắt đi. Cái này người nói rất nhiều.... Sau đó vào năm thứ 33, tôi dự vào kinh sư, được biết rằng có quan Ngự sử nhân việc Hoàng hậu mất, chưa từng được ban chiếu, nên bất bình đem lễ bộ tham tấu, lại bị khiển trách... Trong lòng vọng tưởng, nếu có thể đem Hoàng hậu sự tình tiến lên viết một Chiết tử, chuẩn hành lãnh chiếu, liền có thể lưu danh bất hủ... |
” |
— Văn tự ngục án cung từ - 文字狱案供词 |
Trong Khiếu đình tạp lục (啸亭杂录) cũng có ghi lại chuyện tông thất A Vĩnh A (阿永阿) can gián Càn Long Đế việc đối đãi tệ bạc với Na Lạp hoàng hậu.
“ |
觉罗少司寇阿永阿,以笔帖式起家,任刑部侍郎。性聪敏,善词曲。尝定秋审册,公扬笔曰:“此可谓笔尖儿立扫千人命也。”纳兰皇后以病废,公欲力谏,以有老亲在堂难之。其母识其意,喟然曰:“汝为天家贵胄,今欲进谏当宁,乃以亲老之故以违汝忠荩之志耶,可舍我以伸其志也。”公涕泣从命,因置酒别母,侃然上疏。纯皇帝大怒曰:“阿某宗戚近臣,乃敢蹈汉人恶习,以博一己之名耶?”特召九卿谕之。陈文恭公曰:“此若于臣宅室中,亦无可奈何事。”托冢宰庸曰:“帝后即臣等之父母,父母失和,为人子者何忍于其中辨是非也。”钱司寇汝诚曰:“阿永阿有母在堂,尽忠不能尽孝也。”上斥之曰:“钱陈群老病居家,汝为独子,何不归家尽孝也?”钱叩谢。上乃戍公于黑龙江,命钱司寇归终养焉。逾年,后既崩,御史李玉鸣复上书请行三年丧礼,亦戍于伊犁。二公先后卒于边,未果赦归也 ... Giác La Thiếu tư khấu A Vĩnh A, lấy Bút thiếp thức lập nghiệp, nhậm Thị lang bộ Hình. Tính thông minh, thiện từ khúc. Khi đảm nhiệm định thẩm sổ sách, từng giơ bút viết rằng:"Một ngòi bút, cũng có thể định đoạt một sinh mệnh". Nạp Lan hoàng hậu bị bệnh, Hoàng đế toan muốn phế, công (A Vĩnh A) muốn can gián, nhưng lại ngại lão nhân gia già cả. Mẫu thân của công ý thức được, ngậm ngùi rằng:"Con vốn là thiên gia hậu duệ quý tộc, dĩ nhiên nên can gián Hoàng đế chuyện này. Nếu lấy cái thân già này cản trở ý chí tận trung của con, chi bằng ta cũng cùng theo con quyết gián!". Công khóc tòng mệnh, lấy rượu từ biệt mẫu thân, khản nhiên thượng sớ can gián. Thuần hoàng đế giận dữ rằng: “A mỗ là tông thích cận thần, sao lấy tật xấu của người Hán, tự từ bỏ tiền đồ của chính mình?". Sau đó, Hoàng đế đặc triệu Cửu khanh bàn luận. Ông Trần Văn Cung nói:"Việc này, đổi lại xảy ra ở trong nhà thần, cũng không thể không có khả năng tương tự!". Thác Trủng Tể Dung rằng:"Đế-Hậu là cha mẹ của chúng thần, cha mẹ bất hoà, phận làm con há có thể nhẫn nhịn, không tranh biện bất chấp thị phi chứ?". Tiền Tư khấu tên Nhữ Thành, nói:"A Vĩnh A còn mẹ đang sống, tận trung những khó có thể tận hiếu". Hoàng đế mắng rằng:"Tiền Trần Đàn còn đang bệnh ở nhà, khanh là con trai độc nhất, sao không về nhà mà tẫn hiếu". Tiền khấu tạ. Cuối cùng Hoàng đế đày công (A Vĩnh A) ra Hắc Long Giang, mệnh Tiền tư khấu từ quan trở về nhà. Qua năm, Hoàng hậu băng thệ, Ngự sử Lý Ngọc Minh dâng sớ yêu cầu Hoàng đế cử hành đại tang 3 năm, liền bị đày tới Y Lê. Hai công chết ở biên ải, về sau cũng không rõ sự việc. |
” |
— Khiếu đình tạp lục - A Vĩnh A[29] |
Trong Thanh sử cảo, phần Bộ viện đại thần niên biểu, Tiền Nhữ Thành khuất dưỡng ở năm thứ 30, ngày 3 tháng 5; còn ở Thanh sử liệt truyện (清史列传), truyện về Tiền Nhữ Thành cũng ghi là năm thứ 30, tháng 5 thì xin khuất dưỡng. Tuy cả hai bộ đều không nói rõ nguyên nhân Tiền Nhữ Thành khuất quan, song thời gian đều minh xác, có thể thấy câu chuyện ở Khiếu đình tạp lục thập phần đáng tin.
Còn chuyện A Vĩnh A vì can gián mà bị bãi chức, thực sự có gi trong Triều Tiên vương triều thực lục: "Càn Long giam cầm Hoàng hậu, mà Hình bộ Thị lang A Vĩnh A cực lực can gián" (Nguyên văn: 乾隆幽囚皇后,而刑部侍郎阿永阿极谏。). Thanh sử cảo ghi chuyện A Vĩnh A, ghi nhận ngày 2 tháng 5 năm Càn Long thứ 30, A Vĩnh A bị khiển cách chức.
Càn Long Đế biểu thị[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Càn Long thứ 30, tức ngay năm xảy ra chuyện, vào ngày 20 tháng 6, khoảng gần 4 tháng sau khi Na Lạp hoàng hậu bị giam lỏng, Càn Long Đế đã bí mật gửi một bức thư đến Nạp Tô Khảng, cháu trai gọi Na Lạp hoàng hậu là cô mẫu, trong khi bức thư được phát ra là từ ngày 3 tháng 3, gần 1 tuần sau sự kiện Na Lạp hoàng hậu.
Nội dung bức thư viết, theo Hán ngữ đã được dịch (do bức thư gốc là theo chữ Mãn):
“ |
前近,朕恭侍皇太后驾临杭州,正欲返回,于启程前之日,皇后忽然想要出家,肆行翦发。身为皇后,所行如此,着实不像话。 ... Khi trước, Trẫm cung phụng Hoàng thái hậu giá lâm Hàng Châu, đang muốn trở về, thì ngày hôm trước Hoàng hậu bỗng muốn xuất gia, tùy tiện Tiễn phát. Thân là Hoàng hậu, lại làm chuyện như vậy, thật không thể thống gì cả. |
” |
— Bức thư Càn Long Đế gửi Nạp Tô Khảng bằng Mãn văn, đã dịch ra Hán văn |
Ở đây, [Tiễn phát; 翦发], cùng với [Cạo phát; 剃发], tuy dịch ở tiếng Việt nôm na là dùng vật sắt cắt đi mái tóc, nhưng ở ngôn ngữ đa nghĩa như chữ Hán lại là 2 vấn đề một trời một vực.
Cái gọi là [Cạo phát], chỉ chính là việc hằng ngày cắt tóc, người nam giới Bát Kỳ triều Thanh bởi vì muốn lưu bím tóc, cho nên yêu cầu thường xuyên cạo tóc ở rìa mái. Vào lúc chủ nhân qua đời, hay quốc tang trọng thể, thường yêu cầu Trăm ngày không được cạo phát, tức là cấm không được cắt cạo tóc trong vòng 100 ngày diễn ra đại tang.
Còn gọi [Tiễn phát], là một tập tục cổ của người Mãn Châu. Đó là khi chủ nhân hoặc là tôn trưởng qua đời, các nô tài hoặc vãn bối (nam hay nữ đều được) muốn biểu thị tiếc hận đối với người ấy, liền "tiễn phát" để tỏ tấm lòng. Việc này có chép lại khi Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế băng hà: "Thánh Tổ Nhân hoàng đế tiệt bím tóc, thành phục. Từ Thân vương đến Văn Võ các quan, Cố Luân công chúa, Hòa Thạc phúc tấn, Tông nữ, Tá lãnh, Tam đẳng Thị vệ, Mệnh phụ trở lên, toàn bộ thành phục. Nam trích quan anh, tiệt bím tóc, nữ bỏ trang sức và tiễn phát".
Cho nên, theo lời trong bức thư mà Càn Long Đế gửi và thuật lại, thì khi ấy Na Lạp hoàng hậu đã [tiễn phát], trong khi Hoàng đế và cả Hoàng thái hậu đều còn sống, hẳn là đã phạm đại kị. Tuy nhiên, nguyên nhân vì sao Na Lạp hoàng hậu đột nhiên muốn xuất gia, ngay cả Càn Long Đế vẫn không hay biết. Sự việc này được biểu hiện thông qua loạt "Chu phê thứ" của Càn Long Đế khi phúc đáp tờ chiết thỉnh an của Thập ngũ a ca, tức [Thập ngũ a ca thỉnh an chiết; 十五阿哥请安折], hiện còn trưng bày tại bảo tàng Nam Kinh. Nội dung phúc đáp giữa Càn Long Đế và giữa tổng quản Phan Phượng (潘凤), có nói đến sự kiện Càn Long Đế đã tra hỏi cung nữ 3 người bên cạnh Na Lạp hoàng hậu, ngay cái hôm mà Na Lạp hoàng hậu cắt tóc:
“ |
...原有旨意阿哥公主福晋们都不许接见如今著。谕令皇后进宫后每日所用吃食份例俱照拨用份例用。老实女子拨两名进去也不许换其余女子并活计都搬到端则门暂住翊坤宫留老实太监十名别○在翊坤宫后殿养病,不许见一人。宫中圆明园他住处净房你同毛团细细密看不可令别人知道,若有邪道踪迹,等朕回宫再奏密之又密再令阿哥公主福晋们进去,福隆安有持去的旨意,你看著,阿哥们念,他怎么礼、做何光景,一一记下,不必写折子,涿州接驾你再奏。谕王成皇后此事甚属乖张。如此看来,她平日恨我必深。跟了去的女子三名,当下你同福隆安审问他们十八日如何剪发之事,他们为何不留心,叫他们出去他们就出去吗?要寻自尽难道他们也装不知道吗? ... (Sau khi hồi kinh) Không cho A ca, Công chúa, Mệnh phụ Phúc tấn bọn họ tiếp kiến, phân vị của Hoàng hậu vẫn giữ như cũ. Giữ lại 2 cung nữ đáng tin, còn lại đuổi đi, giữ 10 viên Thái giám. Ở tại Dực Khôn cung dưỡng bệnh, không cho gặp ai hết. Trong cung, Viên Minh viên, tịnh phòng của Hoàng hậu, ngươi cùng Mao Đoàn tinh tế giám sát, nếu có việc gì, chờ Trẫm hồi cung hãy mật tấu. Lại lệnh A ca, Công chúa và các Phúc tấn tiến khứ. Phúc Long An cầm đi các chỉ dụ, ngươi quan sát xem, khi các A ca niệm, (Hoàng hậu) phản ứng như thế nào, nhất nhất ghi nhớ, không cần ghi chép lại, khi tiếp giá ngươi trực tiếp nói với Trẫm. Việc Hoàng hậu cắt tóc lần này thật quái đản, ý muốn rời xa, như thế xem ra hằng ngày nàng hận Trẫm rất sâu! Cung nữ đi theo 3 người, hôm đó rời khỏi phòng, khanh cùng Phúc Long An lập tức phỏng vấn bọn họ ngày 18 về việc Hoàng hậu cắt tóc. Bọn họ vì sao không lưu tâm, gọi bọn họ đi ra ngoài, bọn họ liền đi ra ngoài sao? (Hoàng hậu) muốn tự sát, chẳng lẽ bọn họ cũng giả không biết sao?...
|
” |
— Thập ngũ a ca thỉnh an chiết - 十五阿哥请安折 |
Việc thẩm tra cung nữ đã rời khỏi phòng hôm Na lạp Hoàng hậu cắt tóc, chứng tỏ khi vụ việc xảy ra, bà âm thầm làm, do không muốn liên lụy cung nữ nên xua họ ra ngoài, vậy thì căn bản khi Hoàng hậu cắt tóc là Càn Long Đế không có mặt chứng kiến. Trong chỉ dụ, Càn Long Đế suy đoán “Nàng ngày thường hận ta rất sâu”, lại sai khiến người quan sát Hoàng hậu phản ứng khi tiếp chỉ, có thể thấy được Càn Long Đế đối với sự việc Na Lạp hoàng hậu cắt tóc, dường như cũng không biết được nguyên nhân thật sự.
Hậu duệ[sửa | sửa mã nguồn]
Hoàng hậu Na Lạp thị có ba người con với Càn Long Đế:
- Hoàng thập nhị tử Vĩnh Cơ [永璂; 7 tháng 6, năm 1752 - 17 tháng 3, năm 1776]. Dù là đích xuất nhưng chỉ giữ phong hiệu Bối lặc (貝勒). Sau khi Hoàng hậu Na Lạp thị qua đời, ông bị thất sủng và chết khi mới chỉ 23 tuổi.
- Hoàng ngũ nữ [皇五女; 1753 – 1755], mất sớm.
- Hoàng thập tam tử Vĩnh Cảnh (永璟; 2 tháng 1, năm 1756 - 7 tháng 9, năm 1757), mất sớm, táng vào Đoan Tuệ Hoàng thái tử viên tẩm (端慧皇太子园寝).
Trong văn hóa đại chúng[sửa | sửa mã nguồn]
Năm | Phim điện ảnh và truyền hình | Diễn viên | Nhân vật |
1998 | 《Hoàn Châu cách cách》 | Đới Xuân Vinh | Ô Lạp Na Lạp Hoàng hậu |
1999 | 《Hoàn châu cách cách 2》 | ||
2002 | 《Hoàn Châu cách cách 3: Chi thiên thượng nhân gian》 | Khương Lê Lê | |
《Càn Long du Giang Nam》 | Khương Hồng | Ô Lạp Na Lạp Hoàng hậu (Nhàn phi → Hoàng hậu) | |
2004 | 《Càn Long và Hương Phi》 | Ông Hồng | |
2011 | 《Tân Hoàn Châu cách cách》 | Đặng Tụy Văn | Ô Lạp Na Lạp Hoàng hậu |
2012 | 《Hậu cung Chân Hoàn truyện》 | Trương Nghiên | Ô Lạp Na Lạp Thanh Anh |
2013 | 《Họa khuông nữ nhân》 | Phạm Băng Băng | Ô Lạp Na Lạp Hoàng hậu |
2014 | 《Cung tỏa liên thành》 | Dương Minh Na | |
2018 | 《Như Ý truyện》 | Châu Tấn | Ô Lạp Na Lạp Thanh Anh / Như Ý |
《Diên Hi công lược》 | Xa Thi Mạn | Huy Phát Na Lạp Thục Thận |
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Hậu cung nhà Thanh
- Càn Long Đế
- Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu
- Tuệ Hiền Hoàng quý phi
- Lệnh Ý Hoàng quý phi
- Dung phi
- Thư phi
- Du Quý phi
- Vĩnh Cơ
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Điều này tương tự cách gọi các dòng họ lớn ở Trung nguyên, như Thái Nguyên Vương thị chẳng hạn.
- ^ Thế tập:truyền lại chức vụ từ đời này sang đời khác
- ^ Bát Kỳ tuyển tú: tuyển chọn cả thê thiếp cho các hoàng tử, chứ không hẳn chỉ dùng để tuyển phi tần
- ^ 《內務府上諭檔》:金姓格格封為貴人,海姓格格、陳姓格格均封為常在。高姓側福晉封為貴妃,納喇姓側福晉封為妃,蘇姓格格、黃姓格格均封為嬪。貴妃娘家是包衣佐領人,出為本旗滿洲人。黃姓嬪娘家是包衣管領下人,出為本旗包衣佐領下人。
- ^ 清实录乾隆朝实录卷之五十八: 乾隆二年。丁巳。十二月。丁亥。上礼服。御太和殿。宣制。命保和殿大学士鄂尔泰为正使。户部尚书海望为副使。持节。赍册宝。册立嫡妃富察氏为皇后。册文曰。朕闻乾坤定位。爰成覆载之能。日月得天。聿衍升恒之象。惟内治乃人伦之本。而徽音实王化所基。茂典式循。彝章斯举。咨尔嫡妃富察氏、钟祥勋族。秉教名宗。当亲迎之初年。礼成渭涘。膺嫡妃之正选。誉蔼河洲。温恭娴图史之规。敬顺协珩璜之度。承欢致孝。问安交儆于鸡鸣。逮下流恩。毓庆茂昭于麟趾。允赖宜家之助。当隆正位之仪。兹奉崇庆皇太后慈命。以金册金宝。立尔为皇后。尔其祗承懿训。表正壸仪。奉长乐之春晖。勖夏凊冬温之节。布坤宁之雅化。赞宵衣旰食之勤。恭俭以率六宫。仁惠以膺多福。螽斯樛木。和风溥被于闺闱。茧馆鞠衣。德教覃敷于海宇。永绥天禄。懋迓鸿禧。钦哉。命保和殿大学士张廷玉为正使。内阁学士索柱为副使。持节。册封庶妃高氏为贵妃。册文曰。朕惟政先内治。赞雅化于坤元。秩晋崇班。沛渥恩于巽命。彝章式考。典礼攸加。尔庶妃高氏、笃生名族。克备令仪。持敬慎以褆躬。秉柔嘉而成性。椒掖之芳声早著。度协珩璜。璇闱之淑德丕昭。荣膺纶綍。兹仰承皇太后慈谕。以册宝封尔为贵妃。尔其祗勤日懋。迓景福以凝祥。恭顺弥彰。荷洪庥而衍庆。钦哉。命协办大学士礼部尚书三泰为正使。内阁学士岱奇为副使。持节。册封庶妃那拉氏为娴妃。册文曰。朕惟教始宫闱。式重柔嘉之范。德昭珩佩。聿资翊赞之功。锡以纶言。光兹懿典。尔庶妃那拉氏、持躬淑慎。赋性安和。早著令仪。每恪恭而奉职勤修内则。恒谦顺以居心。兹仰承皇太后慈谕。以册印封尔为娴妃。尔其祗膺巽命。荷庆泽于方来。懋赞坤仪。衍鸿休于有永。钦哉。命东阁大学士徐本为正使。内阁学士春山为副使。持节。册封纯嫔苏氏为纯妃。册文曰。朕惟协赞坤仪。端赖柔嘉之范。翊宣内则。聿加位号之荣。贲以徽章。昭兹茂典。尔纯嫔苏氏、克裕温恭。夙彰淑慎。凛芳规于图史。式佐椒庭。叶令望于珐璜。懋膺纶诰。兹仰承皇太后慈谕。以册印封尔为纯妃。尔其祗承象服。昭勤俭以流徽。笃迓鸿禧。履谦和而裕庆。钦哉。命礼部尚书任兰枝为正使。内阁学士吴家骐为副使。持节。册封贵人金氏为嘉嫔。册文曰。朕惟赞宫庭而敷化。淑德丕昭。班位号以分荣。恩光式焕。珩璜克叶。纶綍攸加。尔贵人金氏、早毓名门。夙禀温恭之度。久勤内职。备娴敬慎之仪。兹仰承皇太后慈谕。册封尔为嘉嫔。尔其象服钦承。履谦和而迓福。鸿禧永荷。懋敦顺以凝祥。钦哉。正使跪受节起。于各册前、依次行。副使随行。至景运门外。捧节授内监。册宝印入官。册立册封礼成。内监持节出景运门。授各正副使。至后左门复命。
- ^ 清实录乾隆朝实录卷之二百三十三 乾隆十年。...乙未。谕、朕奉皇太后懿旨。贵妃诞生望族。佐治后宫。孝敬性成。温恭素著。著晋封皇贵妃。以彰淑德。娴妃、纯妃、愉嫔、魏贵人。奉侍宫闱。慎勤婉顺。娴妃、纯妃、俱著晋封贵妃。愉嫔、著晋封为妃。魏贵人、著晋封为嫔。以昭恩眷。钦此。特行传谕。该部将应行典礼。察例具奏。
- ^ 清实录乾隆朝实录>卷之二百三十四: ○谕、嗣后皇贵妃贵妃仪仗内。红缎曲柄伞。著改用金黄色。妃嫔仪仗内。著添用红缎曲柄伞一柄。
- ^ 乾隆十三年(1748)三月十一日,弘历的嫡皇后孝贤皇后病逝,中宫皇后的位子出现空缺。四个月后,乾隆帝发出一道上谕:“朕躬揽万几。勤劳宵旰。宫闱内政。全资孝贤皇后综理。皇后上侍圣母皇太后。承欢朝夕。纯孝性成。而治事精详。轻重得体。自妃嫔以至宫人。无不奉法感恩。心悦诚服。十余年来。朕之得以专心国事。有余暇以从容册府者。皇后之助也。兹奉皇太后懿旨。皇后母仪天下。犹天地之相成。日月之继照。皇帝春秋鼎盛。内治需人。娴贵妃那拉氏、系皇考向日所赐侧室妃。人亦端庄惠下。应效法圣祖成规。即以娴贵妃那拉氏继体坤宁。予心乃慰。即皇帝心有不忍。亦应于皇帝四十岁大庆之先。时已过二十七月之期矣。举行吉礼。佳儿佳妇。行礼慈宁。始惬予怀也。钦此。朕以二十余年伉俪之情。恩深谊挚。遽行册立。于心实所不忍。即过二十七月。于心犹以为速。但思皇后大事。上轸圣母怀思。久而弥笃。岁时令节。以及定省温凊。朕虽率诸妃嫔、及诸孙、问安左右。而中宫虚位。必有顾之而怆然者。固宜亟承慈命。以慰圣心。且嫔嫱内侍。掖庭之奉职待理者甚众。不可散而无统。至王妃命妇等、皆有应行典礼。允旷不举。亦于礼制未协。册立既不忍举行。可姑从权制。考之明太祖淑妃李氏宁妃郭氏、相继摄六宫事。国朝顺治十三年、册立皇贵妃。皇曾祖世祖章皇帝升殿命使翼日颁诏天下。典至崇重。今应仿效前规。册命娴贵妃那拉氏为皇贵妃。摄六宫事。于以整肃壸仪。上奉圣母。襄助朕躬。端模范而迓休祥。顺成内治。有厚望焉。所有应行典礼。大学士会同礼部、内务府、详议具奏。寻议、恭查皇贵妃册封大典。王妃命妇行礼。已有成例。惟贵妃行礼之处。外廷无案可稽。但皇贵妃摄行六宫事。二十七月后即正位中宫。既统理内政。体制自宜尊崇。贵妃亦应一体行礼。所有册封礼仪应前期一日。遣官祭告太庙。奉先殿告祭礼。上亲诣举行。届期设卤簿仪仗、中和韶乐。上御太和殿阅册宝。大学士等、捧节授持节使。持节使随册宝亭、至景运门授内监。皇贵妃具礼服恭迎。宣受如仪。次日上率王以下文武官员、诣皇太后宫行礼。礼毕。皇贵妃率贵妃以下、公主、王妃、命妇、行礼。上御太和殿受贺。颁诏天下。嗣后遇三大节。及庆贺大典。三品以上大臣官员、进笺庆贺。及每岁行亲蚕礼。应照例举行。得旨、依议册封典礼。著于明年三月后举行。其亲蚕礼。俟正位中宫后。该部照例奏请。
- ^ 皇朝文献通考: 乾隆十四年四月以册封摄六宫事皇贵妃遣官祭告圜丘、方泽、太庙、奉先殿、社稷。
- ^ 钦定大清会典则例: 乾隆十四年 册立攝六宫事皇贵妃
- ^ 清实录乾隆朝实录>卷之三百三十八: 丙戌。以尊上崇庆慈宣康惠皇太后徽号。颁诏天下。诏曰。帝王恭膺景命。寅绍丕基。内正家邦。外宁边境。起宫庭之雅化。播海宇之休风。必原垂裕之隆。以著懋昭之盛。所以显亲教孝。荣号归尊。载考前徽。实多庆典。钦惟我圣母崇庆慈宣皇太后、仁垂教育。德普生成。启泰运以贻谋。体坤仪而立极。顷以中宫虚位。内佐需人。乃眷柔嘉。俾宏继体。娴妃那拉氏、禔躬淑慎、秉性端庄。克承慈顾之恩。允协顺成之义。虽正位之礼。尚待于三年。而统摄之仪。当循乎往制。于乾隆十四年四月初五日。册命那拉氏为皇贵妃摄六宫事。问安兰殿。表范椒涂。永敬奉乎徽音。以穆宣乎壸政。至于遐荒绥靖。中外乂安。丕成不战之功。益荷无疆之庇。方当元勋专阃。嘉勇略之宏抒。禁旅扬威。奏先声之大震。审机宜于宵旰。时切忧勤。承慈诲于再三。深蒙训迪。仰体好生之念。用开祝网之恩。金川土酋莎罗奔、郎卡、等稽首来降。革心效顺。兵戎载戢。蛮服敉宁。淳化殷流。太和翔洽。凡此嘉祥之并集。实惟佑启之多方。宜骏鸿称。以彰盛德。谨告天、地、宗庙、社、稷。于乾隆十四年四月初八日。率王公文武群臣。恭奉册、宝。加上圣母崇庆慈宣皇太后徽号。曰崇庆慈宣康惠皇太后。尊养兼隆。弥衍鸿图之瑞。显扬共戴。永昭燕翼之祥。盛典聿光。湛恩用溥。所有应行事宜。开列于后。一、和硕亲王以下、在京文武三品以上官员。俱加恩赐。一、内外公主以下、固山格格以上。俱加恩赐。一、五岳四渎、及历代帝王陵寝、先师孔子阙里、应遣官致祭。著查例举行。一、内外官员。有因公挂误。降级留任罚俸、并现在因公议降议罚戴罪住俸等项。俱著该部奏明。开复宽宥。一、直省地方有现行事例。不便于民者。各该督抚详察。开列具题。该部确议酌量更正。一、大兵所过州县。除侵盗钱粮、及贻误军需外。一切降罚处分。事在四月初九日以前者。概从宽免。一、自金川用兵以来。军需浩繁。川陕地方。以及大兵经过之处。百姓急公敬事。深属可嘉。各该督、抚、须洁己率属。加意抚绥。严禁有司。勿得横徵私派。及借端需索科敛。官吏分肥。如有此等弊端。该督抚即行据实指参。如或徇庇。别经发觉。将该督抚一并从重治罪。一、经略大学士忠勇公傅恒、先起带往军前之云梯兵。所有从前借支官银。应行扣还者。加恩豁免。一、金川前后所调马步兵丁。借支行装银两。并未经赏给银两之成都满兵。借有公帑者。例应于饷银分扣还项。今格外加恩。凡已至军前者。概予豁免。甫经起程。即奉彻回者。亦量免一半以示优恤。该部即行令各该督、抚、副都统、提、镇、查明办理。毋任不肖将弁。冒扣入己。一、川省运粮夫役。如有逃亡物故拖欠公项。应行追赔者。加恩概行豁免。一、地方有才品优长。山林隐逸之士。著该督、抚、核实具奏。酌与录用。一、满汉孝子、顺孙、义夫、节妇、该管官细加咨访。确实具奏。礼部核实以凭旌表。一、国子监监生及教习。俱免监期一月。一、各省驿站。军兴甚属劳苦。著各督、抚、加意抚恤。一、现在军流以下人犯。概予减等发落。一、伤病兵丁不能充伍者。该管将弁、查明本家如有子弟至戚。可以教练差操。即令顶食名粮。免致失所。一、满洲兵丁。原系披甲效力行间。有带伤残废闲住。及疾病年老闲住者。著察加恩赐。一、各省要路桥梁。间有损坏。行人劳苦。交与地方官查明验看。应行修理之处。该抚奏明修理。于戏。广圣慈而锡福。万邦共乐乎昇平。昭德范以承庥。四海覃敷乎恺泽。布告天下。咸使闻知。
- ^ 清史稿/卷88: 攝六宮事皇貴妃千秋節,儀同皇后。 乾隆十三年,定皇妃攝六宮事,體制宜崇,祭告如冊中宮儀。
- ^ 穿戴档: 乾隆二十三年三月十五日,胡世杰传旨:“袍子领子小些!到家里着皇后放样。巡幸褂抬肩转身最小,亦着放样。
- ^ 穿戴档: 乾隆二十四年十二月初六日,胡世杰传旨:金银线东珠押豆火(火燫)怎么不伺候万岁爷带随?又传旨降东珠押豆火(火燫)拿来伺候呈览。总管马国用等随将火(火燫)二把交与胡世杰奉至御前呈览。奉旨:将东珠押豆一个摅下交于皇后重做一把火(火燫)来。
- ^ 拨用行文底簿: 乾隆二十八年五月十八日,皇帝驾行热河,皇后住汤泉。同行嫔妃有:庆妃、颖妃、忻嫔、豫嫔、慎嫔、容嫔、新常在,共八位,手下女子十七人。
- ^ 乾隆三十年正月十六日,皇帝驾行江南,同行有:皇后、令贵妃、庆妃、容嫔、永常在、宁常在六位。
- ^ 膳底档: 正月十八赏膳给皇后
- ^ 膳底档: 闰二月初九庆妃进全猪肉丝一品,全猪肉丝赏皇后
- ^ 膳底档: 闰二月十四西湖行宫上传叫苏州府役做燕窝烩五香鸡一品赏皇后
- ^ 膳底档: 闰二月十八日皇帝吃饭前赏皇后一个菜,吃完后又赏了一个
- ^ 清宫的《上谕档》记载:“闰二月十八日,乾隆派额驸福隆安扈从皇后那拉氏,由水路先行回京。”
- ^ 乾隆三十一年七月十五日,正在木兰狩猎的皇帝发了一道上谕
- ^ 实际上,那拉皇后的丧礼比皇贵妃的级别还要低,按皇贵妃的丧仪规定,每日应有大臣、公主、命妇齐集举哀、行礼一项,在那拉皇后的丧事中,这项被取消了。那拉皇后既未附葬裕陵,也未单建陵寝,却葬在了妃园寝内,更有甚者,按惯例,凡葬在妃园寝内的,无论地位有多低,都各自为券,而那拉皇后却被塞进了纯惠皇贵妃的地宫,位于一侧。根据大清会典,皇贵妃棺木应用梓木,漆饰35道,抬棺夫96人。从内务府记载的档案中看,那拉皇后所用的棺为杉木制,抬棺夫64人,仅为嫔等级而已,这也符合发掘清理的纯惠皇贵妃地宫里那拉皇后的棺木状况。
另外,清制:凡皇贵妃、贵妃、妃死后都设神牌,供放在园寝享殿内,祭礼时在殿内举行,而嫔、贵人、常在、答应则不设神牌,祭祀时,把供品桌抬到宝顶前的月台上。而那拉皇后既不设神牌,死后也无享祭,入葬以后也只字不提。根据内务府档案记载,整个丧事仅用银200两7钱9分7厘,还不如一个低级朝廷官员。
作为一个位号尚存的皇后,受到如此待遇是很令人侧目的。当时就有一个叫李玉鸣的御史因此上书,却不料惹得皇帝恼羞成怒。“御史李玉鸣奏,内务府办理皇后丧仪,其上坟满月各衙门应有照例齐集之处,今并未闻有传知是否遗漏等语,实属丧心病狂。去岁皇后一事,天下人所共知共闻。今病久奄逝,仍存其名号,照皇贵妃丧仪,交内务府办理,已属朕格外优恩。前降谕旨甚明,李玉鸣非不深知。乃巧为援引会典,谓内务府办理未周,其意不过以仿照皇贵妃之例,犹以为未足,而又不敢明言,故为隐跃其辞,妄行渎扰。其居心诈悖,实不可问。李玉鸣著革职锁拏,发往伊犁。并将此晓谕中外知之。” - ^ “Avec Amélie Lavin, ça déménage au musée des Beaux-Arts”.
- ^ 《清高宗实录》 - 乾隆三十一年七月: 谕曰、御史李玉鸣奏、内务府办理皇后丧仪。其上坟满月。各衙门应有照例齐集之处。今并未闻有传知是否遗漏等语。实属丧心病狂。去岁皇后一事。天下人所共知共闻。今病久奄逝。仍存其名号。照皇贵妃丧仪。交内务府办理。已属朕格外优恩。前降谕旨甚明。李玉鸣非不深知。乃巧为援引会典。谓内务府办理未周。其意不过以仿照皇贵妃之例。犹以为未足。而又不敢明言。故为隐跃其辞。妄行渎扰。其居心诈悖。实不可问。李玉鸣着革职锁拏。发往伊犁。并将此晓谕中外知之
- ^ 乾隆四十三年九月: 乙未。谕本日有锦县生员金从善、于御道旁。进递呈词。条陈四事。狂诞悖逆。为从来所未有。观其首以建储为请。盖妄思彼言一出。便可为他日邀功之具而敢于蔑视王章。情实可恶。即以此事而论。康熙年间。未尝不立皇太子。乃因情性乖张。群小复从而蛊惑。遂致屡生事端。幸而皇祖洞烛其情。再立再废。国家得以乂安。使理密亲王、及弘晳父子。相继嗣位。岂我大清宗社臣民之福乎。至所云立太子。可杜分门别户之嫌。尤为大谬。不知有太子然后有门户。盖众人见神器有属。其庸碌者。必豫为献媚逢迎。桀黠者。且隐图设机构陷。往牒昭然可鉴。若不立储。则同系皇子。并无分别。即有憸邪之辈。又孰从而依附觊觎乎。我皇祖有鉴于前事。自理密亲王既废。不复建储。迨康熙六十一年十一月。皇祖龙驭上宾。皇考绍膺大宝。内上帖然。我皇考效法前徽。亦不立储位。唯于雍正元年。亲书朕名。缄藏于乾清宫正大光明扁内。并不明降谕旨。及雍正十三年八月。皇考升遐。遵向谕敬启御函。朕即缵承洪绪。彼时人情亦甚辑宁。此即不建储之益。固天下臣民所共见共闻者也。朕登极之初。恪遵家法。以皇次子为孝贤皇后所出。人亦贵重端良。曾书其名。立为皇太子。亦藏于正大光明扁内。未几薨逝。因追谥为端慧皇太子。其旨亦即彻去。不复再立。且皇七子亦皇后所出。又复逾年悼殇。若以次序论。则当及于皇长子。既弗克永年。而以才质论。则当及于皇五子。亦旋因病逝。设如古制之继建元良。则朕在位而国储四殒。尚复成何事体乎。然此等大事。朕未尝不计及也。曾于乾隆三十八年冬。密书封识。并以此意、谕知军机大臣。但遵皇考旧例。不明示以所定何人。盖不肯显露端倪。使群情有所窥伺。此正朕善于维持爱护之深心也。然是年冬至南郊大祀。即令诸皇子在坛侍仪观礼。朕曾以所定皇子之名。默祷上帝。以所定之子若贤。能承大清基业。则祈昊苍眷估。俾得有成。苦其人弗克负荷。则速夺其算。毋误国家重大之任。予亦可另行选择。此朕告天之语。岂能饰词以欺人乎。是朕虽未明诏立储。实与立储无异。但不欲似前代之务虚名而滋流弊耳。而该逆犯乃以为大清不宜立太子。岂以不正之运自待耶。此何言乎。尤为大逆不道。我朝得天下之正。实非汉唐宋明所可比。而该逆犯竟敢目为不正。其心显然存内外之见。肆其狂吠。非惟诋斥朕躬。并且干犯列祖。该逆犯身列青衿。自其高曾以来。皆本朝臣仆。食毛践土。百有余年。况其父曾为知县。乃敢悖逆若此。虽夷其三族。亦岂足蔽辜乎。朕每论自昔为建储之请者。大率自为身谋。即年已老耄。亦为其子孙计。明执古礼、以博正人之名。隐挟私见、以图一已之利。若而人者。实无足取。即今时诸臣中。亦未必无存此见者。但如逆犯所云以不正之运自待。明肆诋毁。则实称罕见之鬼蜮耳。总之建储与封建井田相似。封建井田。不可行于后世。建储亦何独不然。至所称、立后一事。更属妄延。乾隆十三年。孝贤皇后崩逝时。因那拉氏、本系朕青宫时。皇考所赐之侧室福晋。位次相当。遂奏闻圣母皇太后。册为皇贵妃、摄六宫事。又越三年。乃册立为后。其后自获过愆。朕仍优容如故。乃至自行翦发。则国俗所最忌者。而彼竟悍然不顾。然朕犹曲予包含。不行废斥。后因病薨逝。只令减其仪文。并未降明旨。削其位号。朕处此事。实为仁至义尽。且其立也。循序而进。并非以爱选色升。及其后自蹈非理。更非因色衰爱弛。况自此不复继立皇后。朕心事光明正大如此。洵可上对天祖。下对臣民。天下后世。又何从訾议乎。该逆犯乃欲朕下罪已之诏。朕有何罪而当下诏自责乎。逆犯又请复立后。朕春秋六十有八。岂有复册中宫之理。况现在妃嫔中。既无克当斯位之人。若别为选立。则在朝满洲大臣。及蒙古扎萨克诸王公。皆朕儿孙辈行。其女更属卑幼。岂可与朕相匹而膺尊号乎。此更可笑。不足论矣。至所称、讷谏一节。朕自临御以来。凡臣工条奏。果有益于国计民生者。无不即为采纳。或下部议行。从无拒谏之事。若各省水旱偏灾。皆朕于督抚等奏报晴雨摺。或咨之奉差入觐之人。稍遇雨旸失调。无不先事邮询。严饬封疆大臣。实力妥办。多方赈恤。并未有臣下陈奏。朕转拒而不听者。即或内外大臣。如有不公不法之事。原许诸臣劾奏。朕察核果实。无难立治所劾大臣之罪。又何尝有如明季言官。弹劾大臣。因而得祸者乎。若胜国宦官宫妾。窃揽大权。擅作威福者。今日实无其事。科道更何从白简从事。亦何待朕之拒绝乎。又所请施德一事。朕践阼至今四十三年。曾普免天下钱粮三次。普免漕粮一次。而灾赈之需。动辄数百万。且如今年豫省水灾。截漕三十万。发帑百余万。此尤近事之可徵者。即以奉天一省而论。今岁既当轮免之年。复以巡幸盛京。特蠲明年正赋。恩德之及民。不为不厚。而该逆犯何尚敢于妄逞横议耶。此等逆犯。实属罪大恶极。昔曾静尚属远居湖南。不料陪都根本重地。俗朴风淳。乃有如此悖逆之徒。实为意想所无。着行在大学士九卿、会同严审定拟具奏
- ^ Từ Hoăng (薨) mà Càn Long Đế dùng vốn chỉ dành cho phi tần và hoàng tử, công chúa; dùng để chỉ sự qua đời. Hoàng hậu cũng như Hoàng đế, khi qua đời đều dùng Băng (崩). Có thể thấy Thanh sử cảo vẫn dùng đúng
- ^ Thanh sử cảo - quyển 214
- ^ 啸亭杂录·阿司寇
|