Khổng Tụ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khổng Tụ
Tên chữTử Ngạn
Thông tin cá nhân
Sinh230 TCN
Mất176 TCN
Giới tínhnam
Gia quyến
Hậu duệ
Khổng Tang
Quốc tịchTây Hán

Khổng Tụ (chữ Hán: 孔聚, ? – 176 TCN) còn gọi là Khổng Tùng (孔藂), tên tựTử Ngạn (子彦), cháu đời thứ mười của Khổng Tử, con Khổng Thụ, tướng lĩnh và khai quốc công thần đầu thời Tây Hán.

Năm đầu thời Tần Nhị Thế (năm 209 TCN) ông cùng với Trần Hạ theo chân Lưu Bang khởi nghĩa ở Nãng Sơn chống lại nhà Tần, thường lập chiến công, sau nhậm chức Tả tư mã, tướng quân, đô úy.[1] Năm thứ năm nhà Hán (năm 202 TCN), Khổng Tụ làm thuộc cấp cho Tề vương Hàn Tín, thống lĩnh tả quân đánh bại Hạng Vũ trong trận chiến ở Cai Hạ.[2]

Tháng giêng năm thứ sáu nhà Hán (năm 201 TCN) ông được Hán Cao Tổ phong là Liệu hầu. Bài thơ Hoài Âm hầu nói rằng: "Tiếng tăm lừng lẫy bắt Hạng Vũ, nào ai bằng hai tướng Khổng Phí".[3] Năm 176 TCN Khổng Tụ qua đời khi mới 53 tuổi, thụy là Di, có hai người con là Khổng TangKhổng Nhượng.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  • Sử ký quyển 8 – Cao Tổ bản kỷ
  • Hán thư quyển 4 – Cao Huệ Cao Hậu văn công thần biểu

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Sử ký sách đã dẫn: "Hoài Âm Hầu Hàn Tín cầm ba mươi vạn quân đương đầu với quân địch, Khổng tướng quân ở cánh tả, Phi tướng quân ở cánh hữu, Hoàng đế ở phía sau. Giáng hầu, Sài tướng quân ở sau lưng Hoàng đế."
  2. ^ Hán thư sách đã dẫn: "Làm xá nhân năm đầu tiên tham gia khởi nghĩa ở đất Nãng, nhậm chức Tả tư mã theo về nhà Hán, dùng làm đô úy dưới trướng Hàn Tín, đánh bại Hạng Tịch, phong làm tướng quân, định công lao ở Cối Kê, Chiết Giang, Hồ Lăng, được phong hầu."
  3. ^ Lưỡng Hán san ngộBồ tướng quân nhất viết: "Hạng Tịch truyện, Anh Bố là Bồ tướng quân, Phục Kiền viết: Anh Bố nổi dậy ở đất Bồ, lấy đó làm hiệu. Sử ký tác ẩn viết: Kình Bố nổi dậy ở khoảng giữa vùng Giang Hồ. Phục lại nói là nổi dậy ở đất Bồ là sai vậy, Vi Chiêu bảo rằng Bồ là họ vậy. Nhân Kiệt viết: Bồ tướng quân là Trần Vũ vậy. Bồ này là phong quốc của người ấy. Giống như Trần Hạ, Phí hầu mà lại là Phí tướng quân, có lẽ là chỉ phong quốc của người này mà thôi, không phải họ vậy. Sở Hán xuân thu viết: Khổng tướng quân ở cánh tả, Phi tướng quân ở cánh hữu, Sài tướng quân ở sau lưng Hoàng đế. Sử ký lấy đó mà sử dụng mà Hán thư lại không dùng. Tây Kinh tạp ký thì nói là cả hai vị tướng quân Khổng Phí đều không phải là tên thật. Thơ Hoài Âm hầu của Thư Vương nói rằng: "Tiếng tăm lừng lẫy bắt Hạng Vũ, nào ai bằng hai tướng Khổng Phí". Có sử dụng lời nói của Tạp ký vậy. Kỳ thực Khổng tướng quân là Khổng Tùng, Phí tướng quân là Trần Hạ, Sài tướng quân tức là Sài Vũ vậy. Cho nên Sử ký mới viết là Cức Bồ hầu Sài Vũ Đại tướng quân mà Hán thư thì lại viết là Trần Vũ."