Khu công nghiệp Morowali

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Khu công nghiệp Morowali là một khu công nghiệp ở huyện Morowali, Trung Sulawesi, Indonesia. Được điều hành bởi một liên doanh Trung Quốc–Indonesia, khu này chủ yếu là các ngành công nghiệp liên quan đến nickel.

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Khu công nghiệp có vị trí tại vùng Bahodopi thuộc huyện Morowali, Trung Sulawesi.[1] Khu công nghiệp có diện tích 2.000 ha, phục vụ bởi một hải cảng, một sân bay và một nhà máy điện than 2 GW.[2] Nó được quản lý bởi Khu công nghiệp PT Indonesia Morowali.[3]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Morowali từng là nơi diễn ra hoạt động khai thác nickel bởi chi nhánh công ty Inco của Vale từ năm 1968.[4] Vào tháng 8 năm 2013, Bộ Công nghiệp công bố kế hoạch phát triển một khu công nghiệp định hướng nickel ở huyện Morowali, ban đầu dự kiến ​​đầu tư 1,5 tỷ USD và có diện tích 1.500 ha, điều hành liên doanh giữa một công ty Trung Quốc và Indonesia.[5] Một biên bản ghi nhớ được ký kết giữa hai công ty vào tháng 10 năm 2013[6] và viên đá đầu tiên cho việc xây dựng khu công nghiệp được Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Saleh Husin đặt vào ngày 5 tháng 12 năm 2014.[7] Các công ty bắt đầu hoạt động từ tháng 4 năm 2015, cùng với việc Tổng thống Joko Widodo khánh thành một lò nấu luyện kim loại vào ngày 28 tháng 5 năm 2015.[8][9]

Năm 2018, ước tính khu công nghiệp này đã sản xuất 50% sản lượng các sản phẩm nickel của Indonesia.[1] Đây là khu công nghiệp nickel lớn nhất ở Indonesia, quốc gia này là nước sản xuất nickel hàng đầu thế giới.[10][11]

Lực lượng lao động[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 3 năm 2022, xấp xỉ 56.000 người làm việc tại khu công nghiệp,[12] trong đó có khoảng 5.000 người từ Trung Quốc đại lục tính đến năm 2020.[13] Có khoảng 28.500 công nhân làm việc tại khu công nghiệp vào tháng 8 năm 2018, trong đó có khoảng 3.100 người lao động nước ngoài, không bao gồm ước tính khoảng 50.000 việc làm gián tiếp liên quan đến khu công nghiệp.[1]

Công nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Theo báo cáo có 18 công ty đang hoạt động trong khu công nghiệp với tổng vốn đầu tư 15,3 tỷ USD vào tháng 10 năm 2022, ban quản lý khu công nghiệp cho biết con số này sẽ tăng lên 40 tỷ USD vào năm 2025.[14] Ước tính tổng năng suất chế tạo thép không gỉ tại khu công nghiệp là 3 triệu tấn mỗi năm.[15] Sản phẩm từ khu công nghiệp chủ yếu là sản phẩm luyện kim, với kế hoạch phát triển thiết bị pin xe điện.[16] Khu công nghiệp đạt 6,6 tỷ USD xuất khẩu cho Indonesia vào năm 2019.[2]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Nur Saleha (8 tháng 4 năm 2021). “Jelajah Bahodopi Morowali, Kawasan Tambang PT IMIP, Intip Foto-fotonya”. Tribun Palu (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  2. ^ a b Ridwan Nanda Mulyana (1 tháng 11 năm 2020). “Terus meningkat, ekspor dari kawasan industri Morowali diramal capai Rp 168,2 triliun”. Kontan (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  3. ^ Agung Hidayat (16 tháng 6 năm 2017). “Morowali jadi sasaran pabrikan baja China”. Kontan (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2021.
  4. ^ Bambang Priyo Jatmiko (7 tháng 2 năm 2012). “VALE INDONESIA: Aksi Anarkis di Morowali Diyakini Tak Pengaruhi Saham”. Bisnis.com (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  5. ^ “Pemerintah Bangun Kawasan Industri Rp 7 T”. kemenperin.go.id (bằng tiếng Indonesia). Investor Daily. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  6. ^ Dini Hariyanti (12 tháng 12 năm 2014). “Morowali, Langkah Awal Menyebar Industri ke Luar Jawa”. Bisnis.com (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  7. ^ Alex Dungkal dan Emral Ferdiansyah (5 tháng 12 năm 2014). “Pembangunan Kawasan Industri Morowali Mulai Dikerjakan”. investor.id (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  8. ^ Rizagana (21 tháng 12 năm 2015). “Telkom Dukung Kawasan Industri Berbasis Digital”. Berita Satu (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  9. ^ Ilyas Istianur Praditya (29 tháng 5 năm 2015). “Jokowi Resmikan Smelter Nikel di Sulawesi Tengah”. liputan6.com (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  10. ^ Florene, Ursula (15 tháng 1 năm 2021). “Indonesia's EV battery aspirations unearth mining waste problems”. KrAsia (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2021.
  11. ^ James Guild (28 tháng 1 năm 2023). “Indonesia wants more than a nickel for natural resources”. CNA (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2023.
  12. ^ Rudi Salam (30 tháng 3 năm 2022). “Rekrut Karyawan Baru, PT IMIP Gelar Campus Hiring di Politeknik ATI Makassar - Tribun-timur.com”. Tribun Timur (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2022.
  13. ^ “Thousands on virus lockdown at China-backed plant in Indonesia”. France24 (bằng tiếng Indonesia). 31 tháng 1 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  14. ^ Arfyana Citra Rahayu (12 tháng 10 năm 2022). “Bakal Makin Ramai, 3 Tahun Lagi akan Ada 40 Tenant di Kawasan Industri Morowali”. Kontan (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2022.
  15. ^ Ridwan Nanda Mulyana (20 tháng 10 năm 2020). “Morowali Industrial (IMIP) merajai produksi nikel olahan di Indonesia”. Kontan (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2021.
  16. ^ Harso Kurniawan. “Tsingshan dan Huafon Investasi US$ 3 Miliar di RI”. investor.id (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2021.