Kim Ki-duk
- Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Kim.
Kim Ki-duk | |
![]() Kim Ki-duk tại Liên hoan phim quốc tế Venice lần thứ 69 | |
Tên tiếng Triều Tiên | |
---|---|
Hangul | |
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Gim Gideok |
McCune–Reischauer | Kim Kidŏk |
Hán-Việt | Kim Cơ Đức |
Kim Ki-duk (tiếng Hàn: 김기덕, phát âm tiếng Hàn: [kimɡidʌk], 20 tháng 12 năm 1960 – 11 tháng 12 năm 2020) là một nhà làm phim người Hàn Quốc nổi tiếng với phong cách làm phim nghệ thuật riêng biệt. Những tác phẩm của ông nhận được rất nhiều lời khen ngợi tại các liên hoan phim quốc tế, khiến cho ông trở thành một trong những đạo diễn phim người châu Á đương đại thành công nhất. Trong sự nghiệp điện ảnh của mình, ông từng giành rất nhiều giải thưởng danh giá, tiêu biểu như: Sư tử vàng tại Liên hoan phim quốc tế Venice lần thứ 69 với Pietà, Sư tử bạc cho Đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim quốc tế Venice lần thứ 61 với 3-Iron, giải Gấu bạc cho đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim quốc tế Berlin lần thứ 54 với Samaritan Girl và giải Un Certain Regard tại Liên hoan phim Cannes 2011 với Arirang,... Tác phẩm được biết đến rộng rãi nhất của ông, Xuân, hạ, thu, đông rồi lại xuân (2003) cũng nằm trong danh sách The Great Movies của nhà phê bình phim nổi tiếng người Mỹ Roger Ebert.
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Kim Ki Duk sinh ngày 20 tháng 12 năm 1960 tại Bonghwa, phía bắc tỉnh Kyungsang, Hàn Quốc. Lớn lên tại một làng thuộc miền núi, ông là một cậu bé nghịch ngợm hay bẻ tay những đứa trẻ khác. Năm lên 9 tuổi, ông và gia đình cùng lên Seoul sống. Ông vào học tại một trường dạy về nghề nông, nhưng ông đã bỏ học nửa chừng ngay sau khi anh trai của mình bị đuổi học. Ông phải đi kiếm việc làm ở các xí nghiệp và năm 20 tuổi ông gia nhập Hải quân Hàn Quốc. Ông rất thích hợp với cuộc sống tại quân ngũ, suốt 5 năm ông được làm nhân viên sĩ quan cấp thấp. Môi trường này đã giúp ông có nhiều vốn sống về tình chiến hữu mà sau này ông đã đưa vào phim của mình.
Sau khi xuất ngũ, ông trải qua 2 năm ở một nhà thờ với mục đích trở thành một linh mục trong khi ông tiếp tục công việc vẽ tranh như khi ông làm hồi bé. Năm 1990, khi đủ tiền mua vé máy bay, ông quyết định sang Paris. Để trang trải cho chi phí hàng ngày ông phải bán tranh và làm việc tại một xưởng vẽ. Khi ông đến Paris, ông xem "việc sản xuất bằng sức lao động của con người là điều đáng quý nhất trong cuộc sống và ông bỏ mặc những ý nghĩ về văn hóa và xem nó như một thứ xa xỉ" nhưng những gì ông thấy ở đây đã khiến cho ông một cái nhìn mới.
Sau khi trở về từ Pháp, ông tập trung rèn luyện việc viết kịch bản của mình trong suốt 6 tháng. 2 trong số những kịch bản của mình đã được chọn trong cuộc thi viết kịch bản. Không quen với việc sáng tác, không đề cập tới việc sử dụng từ ngữ, ông chăm chỉ sáng tác những kịch bản đề cập tới những vấn đề diễn ra gần gũi với cuộc sống - các kinh nghiệm sống thực tiễn mà ông đã từng trải qua. Việc sử dụng từ ngữ cũng là một đặc điểm nổi bật của Kim Ki Duk. Phim của ông không có nhiều các đoạn thoại. Nó gần như là một bộ phim câm mà tất cả các tình tiết đã tự nói lên nhiều điều.
Sự nghiệp điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]
Phim của Kim Ki Duk xoáy sâu vào tâm lý con người, đôi khi vượt quá sự cảm nhận thông thường. Nó cho thấy một cách nhìn, một thế giới quan khác lạ của Kim Ki Duk. Ông làm phim đầu tay vào năm 1996, Crocodile, kể về một người đàn ông chuyên thu thập xác những người tự sát. Những bộ phim của Kim Ki Duk về đề tài phụ nữ luôn bị lên án mạnh mẽ. Năm 1999 bộ phim The Isle miêu tả về cuộc sống, tình cảm của những cô gái điếm đã đoạt giải Quạ vàng của Liên hoan phim viễn tưởng quốc tế của Bỉ, giải Netpac cho phim đáng chú ý nhất Liên hoan phim Venezia. Phim Address Unknown (2001) đoạt giải Đại Linh của điện ảnh Hàn Quốc cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất và nhận đề cử Sư tử vàng Liên hoan phim quốc tế Venice; phim Bad guy (2001) đoạt giải Đại Chung Nữ diễn mới xuất sắc nhất, giải Orient Express tại Liên hoan phim quốc tế Catalonia của Tây Ban Nha và nhận đề cử Gấu Vàng Liên hoan phim quốc tế Berlin; phim The Coast Guard (2002) đoạt giải FIPRESCI, giải Netpac tại Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary, giải Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất cho Jang Dong-gun tại Liên hoan phim châu Á-Thái Bình Dương; phim Spring, Summer, Fall, Winter... and Spring (2003) đoạt giải C.I.C.A.E., Don Quixote và giải thưởng của Ban giám khảo trẻ tại Liên hoan phim quốc tế Locarno, giải thưởng Khán giả bình chọn của Liên hoan phim quốc tế San Sebastian, giải Đại Chung phim xuất sắc nhất 2004; phim Samaritan Girl (2004) đoạt giải Gấu Bạc Đạo diễn xuất sắc nhất Liên hoan phim quốc tế Berlin; phim 3-Iron (2004) đoạt giải Golden Spike tại Liên hoan phim quốc tế Valladolid, giải FIPRESCI, giải Sư tử vàng nhỏ, giải thưởng danh dự SIGNIS, giải Đạo diễn đặc biệt tại Liên hoan phim Venice.
Ngày 08/09/2012 phim Pietà do ông đạo diễn đoạt giải Golden Lion (Sư tử vàng) dành cho phim hay nhất tại Liên hoan phim Venice năm 2012. Các bộ phim của Kim Ki Duk, ông luôn đặt ra những tình huống bất thường, những số phận bất thường: người nhặt xác người tự sát, những người lính biên phòng biển đối mặt với cô gái điên khi họ vô tình bắn chết người yêu cô trong lúc cả hai đang ân ái bên bờ biển, hai cô gái muốn có tiền đi du lịch đã chấp nhận làm gái điếm,...
Không bị ràng buộc bởi những trường lớp đào tạo về điện ảnh nào cũng như trước khi trở thành một đạo diễn thật sự ông cũng chẳng phải làm công việc của một trợ lý đạo diễn. Đó là điều khiến ông trở thành một đạo diễn phóng túng, tự do. Những sự thật tàn nhẫn trong phim của ông luôn khiến cho khán giả cảm thấy sợ hãi còn các nhà phê bình phim thì xem chúng như 1 thứ gì đó rất kinh tởm. Nhưng nhìn lại thì những điều ông gửi gấm đều là điều hoàn toàn có trong thực tế. Ông đưa chúng ta vào cái thực tế ấy rồi hướng chúng ta không bằng những lời thoại hoa mỹ, giáo điều mà đơn giản chỉ là những tình tiết để người xem tự suy ngẫm.
Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]
Ông qua đời vào ngày 11 tháng 12 năm 2020 ở tuổi 59, sau vài ngày phải nhập viện điều trị do bị nhiễm bệnh cùng những biến chứng của Covid-19 trong một chuyến đi công tác tại Latvia.[1]
Danh sách phim[sửa | sửa mã nguồn]
- Pietà (2012) - được chiếu lần đầu tại Liên hoan phim quốc tế Venice 2012.
- Thời gian (2006) - được chiếu lần đầu ngày 30 tháng 6 năm 2006 tại Liên hoan phim quốc tế Karlovy Vary.
- The Bow (2005)
- 3-Iron (2004)
- Samaritan Girl (2004)
- Xuân, hạ, thu, đông rồi lại xuân (2003)
- The Coast Guard (2002)
- Address Unknown (2001)
- Bad Guy (2001)
- The Isle (2000)
- Real Fiction (2000)
- The Birdcage Inn (1998)
- Wild Animals (1996)
- Crocodile (1996)
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- Chú thích
- ^ Đạt Phan (11 tháng 12 năm 2020). “Đạo diễn Kim Ki Duk qua đời vì Covid-19”. Báo điện tử VnExpress. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2020.
- Tài liệu tham khảo
- Seveon, Julien (2003). “An Interview with Korean Director Kim Ki-duk”. Asian Cult Cinema. 38 (1st Quarter): 49–61.
- MARTONOVA, A. (2004) Contemporary Korean cinema - production, tradition and… Kim Ki-Duk. - In: The Plum Blossom. Papers from Korean Studies Conference, Sofia University "St. Kliment Ohridski", Centre for Eastern Languages and Cultures, Sofia: Ex-M, p. 129 – 151
- MARTONOVA, (2012) A. To feel HAN (Arirang by Kim Ki-duk) // Kino, No.3, Sofia:p. 49-47, ISSN 0861-4393 [Да чувстваш ХАН („Ариран" на Ким Ки-док). — Original title in Bulgarian]
- MARTONOVA, A. (2007) The hieroglyph of cinema. Aesthetics and meaning in East Asia movies. Sofia: Panorama Publishing House, 242 pages, ISBN 978 954 9655 31 5 (in Bulgarian)
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Kim Ki-duk. |