Koizumi Junichirō
Koizumi Junichirō (
Ông Koizumi cũng làm những quốc gia khác để ý khi ông gửi Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tới Iraq và khi thăm đền Yasukuni. Vụ thứ hai này gây ra căng thẳng ngoại giao với Trung Quốc và Hàn Quốc.
Giai đoạn đầu đời[sửa | sửa mã nguồn]
Koizumi là một chính trị gia thế hệ thứ ba của gia đình Koizumi. Cha của ông, Jun'ya Koizumi, là tổng giám đốc của Cục Phòng vệ Nhật Bản (nay là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) và là thành viên của Hạ viện. Ông nội của ông, Koizumi Matajirō, là thủ lĩnh của Koizumi Gumi ở Kanagawa (một nhóm lớn của yakuza), và là Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông dưới thời Thủ tướng Hamaguchi và Wakatsuki.
Sinh ra ở Yokosuka, Kanagawa vào ngày 8 tháng 1 năm 1942, Koizumi được học tại trường trung học Yokosuka. Ông tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế tại Đại học Keio. Ông tiếp tục theo học Đại học College London trước khi trở về Nhật Bản vào tháng 8 năm 1969 sau cái chết của cha.
Ông ứng cử vào hạ viện vào tháng 12; tuy nhiên không kiếm đủ số phiếu bầu để thắng cử với tư cách là đại diện của Đảng Dân chủ Tự do (LDP). Năm 1970, ông được thuê làm thư ký cho Takeo Fukuda, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Tài chính và được bầu làm Thủ tướng năm 1976.
Trong cuộc tổng tuyển cử vào tháng 12 năm 1972, Koizumi được bầu làm hạ nghị sĩ của quận 11 Kanagawa. Ông gia nhập phe của Fukuda trong LDP. Kể từ đó, ông đã được bầu lại mười lần.
Hạ nghị viên[sửa | sửa mã nguồn]
Koizumi có được chức vụ cấp cao đầu tiên vào năm 1979 với tư cách là Thứ trưởng Bộ Tài chính của Quốc hội, và chức vụ cấp bộ đầu tiên của ông vào năm 1988 với tư cách là Bộ trưởng Y tế và Phúc lợi dưới thời Thủ tướng Noboru Takeshita và Sōsuke Uno. Ông giữ các chức vụ trong nội các vào năm 1992 (Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông trong nội các Miyazawa) và 1996–1998 (Bộ trưởng Y tế và Phúc lợi trong nội các Hashimoto).
Năm 1994, Koizumi trở thành một phần của phe LDP mới, Shinseiki, bao gồm các nghị sĩ trẻ tuổi và năng động hơn do Taku Yamasaki, Koichi Kato và Koizumi lãnh đạo, một nhóm thường được gọi là "YKK" theo tên nhà sản xuất khóa kéo YKK [1].
Sau khi Thủ tướng Morihiro Hosokawa từ chức vào năm 1994 và LDP trở lại nắm quyền trong một chính phủ liên minh, Koizumi và Hosokawa đã hợp tác với Shusei Tanaka của Đảng Mới Sakigake trong một cuộc đối thoại chiến lược giữa các đảng phái liên quan đến việc Nhật Bản trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc . Mặc dù ý tưởng này không phổ biến trong LDP và không bao giờ thành hiện thực, Koizumi và Hosokawa vẫn duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa các đảng phái, với việc Hosokawa ngầm phục vụ với tư cách là đặc sứ riêng của Koizumi tại Trung Quốc trong thời gian quan hệ Trung-Nhật căng thẳng[2].
Koizumi đã tranh cử chức chủ tịch của LDP vào tháng 9 năm 1995 và tháng 7 năm 1998, nhưng ông nhận được rất ít ủng hộ khi để thua Ryutaro Hashimoto và sau đó là Keizō Obuchi, cả hai đều có được sự ủng hộ rộng rãi hơn trong đảng. Tuy nhiên, sau khi Yamasaki và Kato mất uy tín sau nỗ lực buộc Thủ tướng Yoshirō Mori bỏ phiếu bất tín nhiệm vào năm 2000, Koizumi trở thành thành viên đáng tin cậy cuối cùng còn lại của bộ ba YKK, điều này giúp ông có đòn bẩy đối với cánh có tư tưởng cải cách của đảng.
Ngày 24 tháng 4 năm 2001, Koizumi được bầu làm chủ tịch LDP. Ban đầu, ông được coi là một ứng cử viên bên ngoài chống lại Hashimoto, người đang tranh cử Thủ tướng nhiệm kỳ thứ hai. Tuy nhiên, trong cuộc thăm dò đầu tiên của các tổ chức đảng cấp tỉnh, Koizumi đã giành được 87% so với 11% của đối thủ; trong cuộc bỏ phiếu thứ hai của các thành viên Quốc hội, Koizumi đã giành được 51% so với đến 40% của đối thủ. Ông đã đánh bại Hashimoto với tổng số phiếu bầu cuối cùng là 298 so với 155 của đối thủ[3].[ Ông được bổ nhiệm làm Thủ tướng Nhật Bản vào ngày 26 tháng 4 và liên minh của ông đã giành được 78 trong số 121 ghế trong cuộc bầu cử Thượng viện vào tháng Bảy.
Chức thủ tướng[sửa | sửa mã nguồn]
Chính sách đối nội[sửa | sửa mã nguồn]
Tại Nhật Bản, Koizumi đã thúc đẩy những cách thức mới để hồi sinh nền kinh tế đang suy thoái, nhằm mục đích chống lại các khoản nợ xấu với các ngân hàng thương mại, tư nhân hóa hệ thống tiết kiệm bưu điện và tổ chức lại cấu trúc phe phái của LDP. Ông nói về sự cần thiết của một giai đoạn tái cơ cấu đau đớn để cải thiện tương lai. Để thiết kế các sáng kiến chính sách vào năm 2001, ông đã sử dụng Hội đồng Chính sách Kinh tế và Tài chính mới (Keizai Zaisei Seisaku Tanto Daijin) hay CEFP. CEFP đã ban hành một tài liệu kế hoạch hàng năm, "Các chính sách cơ bản để quản lý và cải cách kinh tế và tài chính". CEFP lên kế hoạch tổ chức lại chính quyền trung ương và định hình chính sách kinh tế với sự hợp tác của các thành viên nội các chủ chốt. Để đối phó với thách thức trì trệ kinh tế, CEFP đã thực hiện một cách tiếp cận tích hợp, một quan điểm kinh tế toàn cầu và thúc đẩy tính minh bạch cao hơn; triết lý của CEFP là tân tự do[4].
Vào mùa thu năm 2002, Koizumi đã bổ nhiệm nhà kinh tế học và bình luận viên truyền hình thường xuyên của Đại học Keio Heizō Takenaka làm Bộ trưởng Bộ Dịch vụ Tài chính và người đứng đầu Cơ quan Dịch vụ Tài chính (FSA) để khắc phục cuộc khủng hoảng ngân hàng của đất nước. Nợ xấu của các ngân hàng đã được cắt giảm đáng kể với tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng lớn chỉ bằng một nửa so với năm 2001. Nền kinh tế Nhật Bản đã phục hồi chậm nhưng ổn định và thị trường chứng khoán phục hồi mạnh mẽ. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế, mức tăng trưởng GDP năm 2004 là một trong những mức cao nhất trong số các quốc gia G7. Takenaka được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Cải cách Bưu chính vào năm 2004 để tư nhân hóa Japan Post, nhà điều hành hệ thống Tiết kiệm Bưu điện của đất nước.[5]
Koizumi đã đưa LDP rời khỏi cơ sở nông nghiệp nông thôn truyền thống của mình để hướng tới một trung tâm tân tự do, đô thị hơn, khi dân số Nhật Bản tăng lên ở các thành phố lớn và giảm ở các khu vực ít dân cư hơn, mặc dù theo cách phân chia địa hạt thuần túy hiện tại, các phiếu bầu ở nông thôn ở Nhật Bản vẫn mạnh hơn nhiều lần hơn thành thị. Ngoài việc tư nhân hóa Bưu điện Nhật Bản (mà nhiều người dân nông thôn lo ngại sẽ làm giảm khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản như ngân hàng), Koizumi cũng làm chậm lại các khoản trợ cấp nặng nề của LDP cho cơ sở hạ tầng và phát triển công nghiệp ở các vùng nông thôn. Những căng thẳng này đã khiến Koizumi trở thành một nhân vật gây tranh cãi nhưng được yêu thích trong chính đảng của ông và trong các cử tri Nhật Bản.[5]
Chính sách đối ngoại[sửa | sửa mã nguồn]
Mặc dù chính sách đối ngoại của Koizumi tập trung vào quan hệ gần gũi hơn với Hoa Kỳ và chính sách ngoại giao lấy Liên hợp quốc làm trung tâm, được tất cả những người tiền nhiệm của ông áp dụng, nhưng ông đã đi xa hơn, ủng hộ các chính sách của Hoa Kỳ trong Cuộc chiến chống khủng bố. Ông quyết định triển khai Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản tới Iraq, đây là nhiệm vụ quân sự đầu tiên tại các vùng chiến sự nước ngoài đang hoạt động kể từ khi kết thúc Thế chiến II. Nhiều nhà bình luận Nhật Bản chỉ ra rằng mối quan hệ thuận lợi giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản dựa trên tình bạn cá nhân của Koizumi với Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush. Các quan chức Nhà Trắng mô tả cuộc gặp đầu tiên giữa Koizumi và Bush tại Trại David là "ấm áp lạ thường"[6]. Kể từ khi rời nhiệm sở, ông đã bảo vệ quyết định gửi quân Nhật tới Iraq[7]. Trong các vấn đề bắt cóc người Nhật và phát triển hạt nhân của Triều Tiên, Koizumi có thái độ quyết đoán hơn những người tiền nhiệm của mình.[8]


Chính sách lực lượng phòng vệ[sửa | sửa mã nguồn]
Mặc dù Koizumi ban đầu không vận động về vấn đề cải cách quốc phòng[3], nhưng ông đã chấp thuận việc mở rộng Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản (JSDF) và vào tháng 10 năm 2001, họ được trao phạm vi rộng hơn để hoạt động bên ngoài đất nước. Một số binh lính này đã được phái đến Iraq. Chính phủ của Koizumi cũng đưa ra dự luật nâng cấp Cơ quan Quốc phòng lên thành Bộ; cuối cùng, Cơ quan Phòng vệ trở thành Bộ Quốc phòng Nhật Bản vào ngày 9 tháng 1 năm 2007[9].
Nghỉ hưu[sửa | sửa mã nguồn]
Koizumi tuyên bố rằng ông sẽ từ chức vào năm 2006, theo quy định của LDP, và sẽ không đích thân chọn người kế vị như nhiều thủ tướng LDP đã làm trong quá khứ. Ngày 20 tháng 9 năm 2006, Shinzo Abe được bầu để kế nhiệm Koizumi làm chủ tịch LDP. Abe kế nhiệm Koizumi làm thủ tướng vào ngày 26 tháng 9 năm 2006.
Koizumi vẫn ở trong Quốc hội thông qua chính quyền của Abe và Yasuo Fukuda, nhưng tuyên bố rút lui khỏi chính trường vào ngày 25 tháng 9 năm 2008, ngay sau cuộc bầu cử Taro Aso làm Thủ tướng. Ông vẫn giữ ghế Quốc hội cho đến cuộc tổng tuyển cử tiếp theo, khi con trai ông Shinjiro được bầu vào cùng một ghế đại diện cho quận 11 Kanagawa vào năm 2009. Koizumi ủng hộ Yuriko Koike trong cuộc bầu cử lãnh đạo LDP được tổ chức trước đó vào tháng 9 năm 2008, nhưng Koike chỉ xếp thứ ba[10].
Kể từ khi rời nhiệm sở thủ tướng, Koizumi đã không đưa ra một yêu cầu trả lời phỏng vấn hay xuất hiện trên truyền hình nào, mặc dù ông đã có những bài phát biểu và tiếp xúc riêng với các nhà báo.[11]
Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]
-
Koizumi và Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush tại Nhà Trắng, 29 tháng 6 năm 2006.
-
.Koizumi gặp trẻ em ở Sea Island, Georgia ngay trước hội nghị thượng đỉnh G8 năm 2004.
-
Koizumi với Kofi Annan, George W. Bush và Vladimir Putin, 20 tháng 7 năm 2001.
-
Koizumi cùng các nhà lãnh đạo thế giới tại Hội nghị thượng đỉnh G8 lần thứ 32 ở Strelna, Nga.
-
Koizumi tại Bảo tàng Chứng tích chiến tranh năm 2007.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “Ohashi's anti-Koizumi campaign goes on without policies”. Kyodo News. 17 tháng 7 năm 2001. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2014.
- ^ “「細川・小泉」あるか2度目の連携”. 日本経済新聞. 9 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2014.
- ^ a b Anderson, Gregory E., "Lionheart or Paper Tiger? A First-term Koizumi Retrospective" tại Wayback Machine (lưu trữ 19 tháng 2 2006) (Archive), Asian Perspective 28:149–182, March 2004.
- ^ Hiroshi Kaihara, "Japan’s political economy and Koizumi’s structural reform: A rise and fall of neoclassical economic reform in Japan." East Asia 25.4 (2008): 389-405.
- ^ a b Kaihara, "Japan’s political economy and Koizumi’s structural reform" (2008): 389-405.
- ^ Chen, Edwin (1 tháng 7 năm 2001). “Bush Enjoys a Warm Meeting With Koizumi”. Los Angeles Times.
- ^ “Junichiro Koizumi: 'I'm not strange. I'm extraordinary'”. Financial Times. 10 tháng 8 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2022.
- ^ “内閣府ウェブサイトの常時暗号化による「https:」への切り替え - 内閣府” (PDF). wwwa.cao.go.jp. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 7 năm 2007.
- ^ "Diet closes for summer, puts lid on Koizumi legacy Lưu trữ tháng 6 6, 2011 tại Wayback Machine," Japan Times (registration required), 17 June 2006.
- ^ Sachiko Sakamaki and Takahiko Hyuga, "Koizumi, Former Japan Premier, to Quit Parliament After Aso Win", Bloomberg, 26 September 2008.
- ^ Okubo, Maki (12 tháng 1 năm 2014). “'We've been lied to,' said ex-Prime Minister Koizumi”. The Asahi Shimbun. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2014.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Koizumi Junichirō. |
- Những Diễn văn và Lời nói của Thủ tướng Koizumi Junichirō – Bộ Ngoại giao Nhật Bản (tiếng Anh)
- Tiểu sử Thủ tướng Koizumi (tiếng Anh)
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Koizumi Junichirō. |