Lee Kang-in
![]() Lee năm 2022 | ||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | ||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Lee Kang-in[1] | |||||||||||||||||||||
Ngày sinh | 19 tháng 2 năm 2001 | |||||||||||||||||||||
Nơi sinh | Incheon, Hàn Quốc | |||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,73 m (5 ft 8 in) | |||||||||||||||||||||
Vị trí |
Tiền vệ tấn công Tiền vệ cánh | |||||||||||||||||||||
Thông tin câu lạc bộ | ||||||||||||||||||||||
Đội hiện nay | Paris Saint-Germain | |||||||||||||||||||||
Số áo | 19 | |||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | ||||||||||||||||||||||
2009[2] | Incheon United | |||||||||||||||||||||
2011[3] | Flyings FC | |||||||||||||||||||||
2011–2017 | Valencia | |||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | ||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||||
2017–2019 | Valencia B | 26 | (4) | |||||||||||||||||||
2018–2021 | Valencia | 44 | (2) | |||||||||||||||||||
2021–2023 | Mallorca | 66 | (7) | |||||||||||||||||||
2023– | Paris Saint-Germain | 2 | (0) | |||||||||||||||||||
Đội tuyển quốc gia‡ | ||||||||||||||||||||||
2017–2019 | U-20 Hàn Quốc | 16 | (7) | |||||||||||||||||||
2021– | U-23 Hàn Quốc | 15 | (3) | |||||||||||||||||||
2019– | Hàn Quốc | 18 | (4) | |||||||||||||||||||
Thành tích
| ||||||||||||||||||||||
* Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ chuyên nghiệp chỉ được tính cho giải quốc gia và chính xác tính đến 20:22, 20 tháng 8 năm 2023 (UTC) ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia chính xác tính đến 21 tháng 11 năm 2023 |
Lee Kang-in | |
Hangul | |
---|---|
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | I Gangin |
McCune–Reischauer | I Kangin |
Hán-Việt | Lý Khang Nhân |
IPA | [i.ɡaŋ.in] hoặc [i] [kaŋ.in] |
Lee Kang-in (Hangul: 이강인, Romaja: igang-in, Hán Việt: Lý Khang Nhân, sinh ngày 19 tháng 2 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hàn Quốc hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Ligue 1 Paris Saint-Germain và Đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc.
Là sản phẩm của học viện trẻ Valencia, Lee đã ra mắt chuyên nghiệp cho câu lạc bộ ở tuổi 17 vào năm 2018, trở thành cầu thủ bóng đá Hàn Quốc trẻ nhất ra mắt chuyên nghiệp ở châu Âu. Trong mùa giải đầu tiên, anh ấy đã giành được Copa del Rey, trước khi ra mắt UEFA Champions League trong mùa giải chuyên nghiệp thứ hai. Lee gia nhập Mallorca vào năm 2021, nơi anh khẳng định mình là một trong những cầu thủ rê bóng hàng đầu châu Âu, trước khi rời Tây Ban Nha để đến câu lạc bộ Pháp Paris Saint-Germain vào năm 2023.
Năm 2019, Lee đã giành được Cầu thủ trẻ châu Á xuất sắc nhất năm, cùng năm mà anh ấy đã giành được của giải thưởng Quả bóng vàng của FIFA U-20 World Cup. Đội của Lee đã về nhì trong sự kiện này. Sau đó, anh đã có trận ra mắt cấp cao cho Hàn Quốc vào tháng 9 năm 2019. Năm 2022, Lee được chọn vào đội tuyển quốc gia của anh tham dự FIFA World Cup 2022.
Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]
Lee gia nhập học viện đào tạo trẻ của Valencia vào tháng 7 năm 2011. Ngày 15 tháng 12 năm 2017, Lee được gọi lên đội trẻ Valencia CF Mestalla. Anh ra mắt vào ngày 21 tháng 2 năm 2017 trong trận đấu với Deportivo Aragón.
Lee có bàn kiến tạo đầu tiên vào ngày 17 tháng 2 năm 2018 khi đối đầu với UE Llagostera. Anh có bàn thắng đầu tiên vào ngày 6 tháng 5 năm 2018 trong trận đấu với CE Sabadell FC.
Lee ra mắt lần đầu tiên trong đội 1 vào ngày 30 tháng 10 năm 2018, anh chơi 83 phút trong chiến thắng 2-1 của đội nhà trước CD Ebro tại Copa del Rey, qua đó trở thành cầu thủ bóng đá trẻ nhất Hàn Quốc ra mắt ở một giải đấu chuyên nghiệp tại châu Âu.[4][5]
Lee ra mắt lần đầu tiên ở La Liga vào ngày 12 tháng 1 năm 2019, thay thế cho Denis Cheryshev ở phút thứ 86 trong trận hoà 1-1 trước Real Valladolid tại mùa giải 2018-19 khi mới 17 tuổi, 10 tháng và 24 ngày. Lee trở thành cầu thủ thứ hai và trẻ nhất ra mắt tại mùa giải 2018/19 La Liga sau Ander Barrenetxea của Real Sociedad (16 tuổi, 11 tháng và 24 ngày). Lee cũng trở thành cầu thủ ngoài Tây Ban Nha đầu tiên và cũng là cầu thủ người châu Á đầu tiên ra mắt tại Valencia CF. Anh là cầu thủ người Hàn Quốc thứ 5 chơi bóng ở La Liga (sau Lee Chun-soo năm 2003 cho Real Sociedad, Lee Ho-jin năm 2006 cho Racing de Santander, Park Chu-young năm 2012 cho Celta Vigo và Kim Young-gyu năm 2013 cho UD Almería).[6]
Vào ngày 30 tháng 1 năm 2019, Lee chính thức được đôn lên đội một của Valencia, anh nhận áo số 16.[7]
Vào ngày 17 tháng 9 năm 2019, Lee chính thức ra mắt tại UEFA Champions League với tư cách là người thay thế cho Rodrigo trong chiến thắng 1-0 trước Chelsea, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất Hàn Quốc ra mắt tại đấu trường này khi mới 18 tuổi, 6 tháng, kỷ lục này trước đó được nắm giữ bởi Jeong Woo-yeong. Lee cũng trở thành cầu thủ trẻ thứ 5 từng ra mắt cho Valencia trong cùng một giải đấu.[8] Vào ngày 25 tháng 9 năm 2019, anh ghi bàn thắng đầu tiên ở La Liga trong trận hòa 3-3 trước Getafe, trở thành cầu thủ trẻ không phải người Tây Ban Nha đầu tiên làm điều này cho Valencia khi mới 18 tuổi, 219 ngày - phá vỡ kỷ lục trước đó của Mohamed Sissoko, người đã ghi bàn tại UEFA Cup 2003-04 và là cầu thủ trẻ thứ ba từ trước đến nay; chỉ sau Juan Mena và Fernando Gómez. Tuy vậy, kỷ lục của Lee sau đó bị đồng đội người Mỹ Yunus Musah phá vào mùa giải tiếp theo.[9]
Vào ngày 13 tháng 9 năm 2020, Lee trở thành cầu thủ trẻ nhất kiến tạo hai bàn thắng ở một trận đấu tại La Liga thế kỷ 21. Thành tích này được xác lập trong chiến thắng 4-2 của Valencia trước Levante khi anh mới 19 tuổi 207 ngày - phá vỡ kỷ lục trước đó thuộc về Juan Mata vào năm 2008 là 20 tuổi 150 ngày.[10]
Sự nghiệp quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]
Đội tuyển trẻ[sửa | sửa mã nguồn]
Lee được lựa chọn thi đấu cho đội U-20 Hàn Quốc tại giải U20 World Cup 2019 và chơi toàn bộ các trận từ vòng bảng cho đến knock-out, đóng vai trò dẫn dắt cả đội đến vị trí á quân lần đầu tiên trong lịch sử, cá nhân Lee cũng ghi được 2 bàn thắng và 4 pha kiến tạo trong 7 trận đấu.[11] Với kết quả này, anh nhận được danh hiệu Quả Bóng Vàng với tư cách là Cầu thủ hay nhất giải đấu.[12]
Đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]
Lee được gọi lần đầu lên Đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc (đội 2) vào tháng 3 năm 2019 cho những trận giao hữu với Bolivia và Colombia, anh trở thành cầu thủ trẻ thứ 7 trong lịch sử được gọi lên tuyển. Vào ngày 5 tháng 9 năm 2019, Lee chính thức ra mắt đội 1 và thi đấu trọn vẹn cả trận trong trận giao hữu hoà 2-2 với Georgia.[13]
Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp Quốc gia | Châu lục | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Hạng đấu | Trận đấu | Bàn thắng | Trận đấu | Bàn thắng | Trận đấu | Bàn thắng | Trận đấu | Bàn thắng | Trận đấu | Bàn thắng | ||
Valencia B | 2017–18 | Segunda División B | 11 | 1 | — | — | — | 11 | 1 | |||
2018–19 | Segunda División B | 15 | 3 | — | — | — | 15 | 3 | ||||
Tổng cộng | 26 | 4 | — | — | — | 26 | 4 | |||||
Valencia | 2018–19 | La Liga | 3 | 0 | 6 | 0 | 2[a] | 0 | — | 11 | 0 | |
2019–20 | La Liga | 17 | 2 | 2 | 0 | 5[b] | 0 | 0 | 0 | 24 | 2 | |
2020–21 | La Liga | 24 | 0 | 3 | 1 | — | — | 27 | 1 | |||
Total | 44 | 2 | 11 | 1 | 7 | 0 | 0 | 0 | 62 | 3 | ||
Mallorca | 2021–22 | La Liga | 30 | 1 | 4 | 0 | — | — | 34 | 1 | ||
2022–23 | La Liga | 36 | 6 | 3 | 0 | — | — | 39 | 6 | |||
Tổng cộng | 66 | 7 | 7 | 0 | — | — | 73 | 7 | ||||
Tổng cộng sự nghiệp | 136 | 13 | 18 | 1 | 7 | 0 | 0 | 0 | 161 | 14 |
- ^ Ra sân tại UEFA Europa League
- ^ Ra sân tại UEFA Champions League
Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]
- Tính đến ngày 21 tháng 11 năm 2023[16]
Đội tuyển quốc gia | Năm | Trận | Bàn |
---|---|---|---|
Hàn Quốc | 2019 | 3 | 0 |
2020 | 2 | 0 | |
2021 | 1 | 0 | |
2022 | 4 | 0 | |
2023 | 8 | 4 | |
Tổng cộng | 18 | 4 |
- Tính đến ngày 16 tháng 11 năm 2023
- Bàn thắng và kết quả của Hàn Quốc được để trước.[17]
# | Ngày | Địa điểm | Số trận | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 | 13 tháng 10 năm 2023 | Sân vận động Seoul World Cup, Seoul, Hàn Quốc | 15 | ![]() |
1–0 | 4–0 | Giao hữu |
2 | 2–0 | ||||||
3 | 17 tháng 10 năm 2023 | Sân vận động Suwon World Cup, Suwon, Hàn Quốc | 16 | ![]() |
5–0 | 6–0 | |
4 | 16 tháng 11 năm 2023 | Sân vận động Seoul World Cup, Seoul, Hàn Quốc | 17 | ![]() |
5–0 | 5–0 | Vòng loại FIFA World Cup 2026 |
Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
Valencia
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “FIFA World Cup Qatar 2022 – Squad list: Korea Republic (KOR)” (PDF). FIFA. 15 tháng 11 năm 2022. tr. 17. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2022.
- ^ 엑스포츠인터뷰 -슛돌이 3기 이강인을 만나다 (bằng tiếng Hàn). Xportsnews. 11 tháng 5 năm 2009.
- ^ 슛돌이 이강인, 발렌시아 CF 유소년팀 입단 (bằng tiếng Hàn). Starnews Korea. 6 tháng 7 năm 2011.
- ^ “'Valencia, Spain' debut... 83 Cup of King Cup” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Telereport.com. ngày 31 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2018.
- ^ “CD Ebro vs Valencia CF Live”. LaLiga. ngày 30 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2018.
- ^ “Valencia CF vs R. Valladolid CF Live” (bằng tiếng Tây Ban Nha). La Liga. ngày 12 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2019.
- ^ “Comunicado oficial I Kang In” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Valencia. ngày 30 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2019.
- ^ “Lee Kang-in of Valencia Makes Youngest Champions League Debut by Korean” (bằng tiếng Anh). The Chosun Ilbo. ngày 19 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2019.
- ^ “"Yunus Musah, la última perla de la cantera che"” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Diario AS. ngày 13 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2020.
- ^ “"Valencia 4–2 Getafe” (bằng tiếng Anh). Goal.com. ngày 13 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2020.
- ^ “[엠스플 축구] 지도자들 "이강인 '골든볼' 수상 대단하지만 걱정도 되는 게 사실"” (bằng tiếng Hàn). MBC SPORTS+. ngày 17 tháng 6 năm 2019.
- ^ “Lee, Lunin headline award winners at Poland 2019”. FIFA.com. Fédération Internationale de Football Association. ngày 15 tháng 6 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2020.
- ^ “South Korea vs. Georgia - Football Match Summary - ngày 5 tháng 9 năm 2019 - ESPN”. ESPN.com. ngày 5 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2019.
- ^ “Korea Republic – Lee Kang-In – Profile with news, career statistics and history”. Soccerway. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2019.
- ^ “Kang-in Lee”. SofaScore. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2019.
- ^ “Lee Kang-in”. National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2021.
- ^ “이강인 Lee Kangin”. Korea Football Association. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2023.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Lee Kang-in. |
- Profile tại website của RCD Mallorca
- Lee Kang-in tại BDFutbol
- Lee Kang-in – National Team Stats tại Hiệp hội bóng đá Hàn Quốc (tiếng Triều Tiên)
- Sinh năm 2001
- Nhân vật còn sống
- Cầu thủ bóng đá nam Hàn Quốc
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2020
- Cầu thủ bóng đá La Liga
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Hàn Quốc
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Hàn Quốc
- Cầu thủ bóng đá Valencia CF
- Cầu thủ bóng đá Paris Saint-Germain F.C.
- Cầu thủ bóng đá Ligue 1
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp