Louis I xứ Orléans

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Louis I xứ Orléans
Chân dung chi tiết từ Couvent des Célestins (Paris, thế kỉ 16)
Công tước xứ Orléans, Bá tước xứ Valois
Tại vị4 tháng 6 năm 1392  – 23 tháng 11 năm 1407
Kế nhiệmCharles
Thông tin chung
Sinh(1372-03-13)13 tháng 3 năm 1372
Hôtel Saint-Pol, Paris, Pháp
Mất23 tháng 11 năm 1407(1407-11-23) (35 tuổi)
Le Marais, Paris, Pháp
An tángCouvent des Célestins, Paris
Phối ngẫu
Valentina Visconti (cưới 1389–1407)
Hậu duệCharles I, Công tước xứ Orléans
Philippe, Bá tước xứ Vertus
Jean, Bá tước xứ Angoulême
Margaret, Nữ bá tước xứ Vertus
Jean xứ Dunois(không hợp pháp)
Vương tộcValois-Orléans
Thân phụCharles V của Pháp
Thân mẫuJeanne xứ Bourbon
Tôn giáoGiáo hội Công giáo

Louis I xứ Orléans (tiếng Pháp: Louis Ier d'Orléans; 13 tháng 3 năm 1372 - 23 tháng 11 năm 1407) là Công tước xứ Orléans từ năm 1392 cho đến khi ông qua đời. Ông cũng là Công tước xứ Touraine (1386–1392), Bá tước các xứ Valois (1386? –1406), Blois (1397–1407), Angoulême (1404–1407), Périgord (1400–1407) và Soissons (1404–1407).

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Louis ở trong trại (phía trước). Trong nền, Sigismund kết hôn với Mary

Louis sinh ngày 13 tháng 3 năm 1372,[1] là con trai thứ hai của Vua Charles V của PhápJeanne xứ Bourbon. Ông cũng là em trai của hoàng tử trữ quân Pháp Charles.[2]

Năm 1374, Louis được hứa hôn với Katalin, người thừa kế ngai vàng của Hungary. Louis và Katalin dự kiến ​​sẽ trị vì Hungary hoặc Ba Lan, vì cha của Katalin, Lajos I của Hungary không có con trai. Cha của Katalin cũng dự định để lại cho họ quyền yêu sách của mình đối với Vương quốc Napoli và Lãnh địa Bá tước Provence, lúc đó được nắm giữ bởi người em họ ốm yếu và không có con của ông là Giovanna.[3]Tuy nhiên, cái chết của Katalin vào năm 1378 đã làm đổ vỡ những dự định trên. Năm 1384, Elizabeta xứ Bosnia bắt đầu thương lượng với cha của Louis về khả năng Louis kết hôn với con gái của bà là Mária, bất chấp việc Mária đã đính hôn với Sigismund xứ Luxembourg. Nếu Elizabeth đưa ra đề xuất này vào năm 1378 sau khi Katalin qua đời, thì việc vua Pháp và vua Hungary không thừa nhận cùng một vị giáo hoàng sẽ có vấn đề lớn. Tuy nhiên, Elizabeth đã tuyệt vọng vào năm 1384 và không sẵn sàng để cuộc ly giáo cản trở các cuộc đàm phán. Giáo hoàng đối lập Clement VII đã ban hành một kỳ hạn hủy bỏ lời hứa hôn của Mária với Sigismund và hôn lễ ủy nhiệm giữa Louis và Mária được cử hành vào tháng 4 năm 1385.[4] Tuy nhiên, cuộc hôn nhân không được các nhà quý tộc Hungary trung thành với Giáo hoàng Urban VI công nhận. Bốn tháng sau cuộc hôn nhân ủy nhiệm, Sigismund xâm lược Hungary và kết hôn với Mary, điều này cuối cùng đã phá hủy cơ hội trị vì của Louis với tư cách là Quốc vương của Hungary.[5]

Vai trò trong triều và cuộc chiến tranh trăm năm[sửa | sửa mã nguồn]

Louis đóng một vai trò chính trị quan trọng trong cuộc Chiến tranh Trăm Năm. Năm 1392, người anh trai Charles của Louis, (người vốn bị cho là có thể bị tâm thần phân liệt, hoang tưởng hoặc rối loạn lưỡng cực) xảy ra lần đầu tiên hành vi thiếu kiểm soát, trong một chuỗi các hành vi bị cho là 'mất trí' cho đến tận cuối đời. Điều này hiển nhiên cho thấy rằng Charles không thể cai trị một cách độc lập được nữa. Năm 1393, một hội đồng nhiếp chính do vương hậu Isabeau, chị dâu Louis, được chủ trì, được thành lập, và qua đó Louis bắt đầu có được ảnh hưởng mạnh mẽ đối với triều đình.

Louis d'Orléans cho ra mắt tình nhân, vẽ khoảng 1825–26 (Bộ sưu tập Thyssen-Bornemisza, Madrid) của Eugène Delacroix, minh họa cho danh tiếng của Louis như một kẻ phá đám.

Louis tranh chấp quyền nhiếp chính và quyền giám hộ của những đứa trẻ hoàng gia với Jean Dũng cảm, Công tước xứ Bourgone. Mối hiềm khích giữa hai người đã diễn ra công khai và là nguồn gốc của tình trạng bất ổn chính trị ở nước Pháp vốn đã gặp khó khăn. Louis có lợi thế ban đầu, vì là em trai ruột chứ không phải là em họ của nhà vua như Jean, nhưng danh tiếng là người lăng nhăng và tin đồn ngoại tình với chị dâu là vương hậu Isabeau khiến ông không được lòng nhiều người. Trong những năm sau đó, những đứa con của Charles VI liên tiếp bị bắt cóc và được cả hai bên hồi trả, cho đến khi Jean được bổ nhiệm làm người giám hộ cho Thái tử Louis và là nhiếp chính của Pháp.

Louis đã không bỏ cuộc và dùng mọi nỗ lực để phá hoại quyền lực của Jean, bao gồm cả việc phung phí số tiền quyên góp được để cứu trợ Calais, vốn đang bị người Anh chiếm đóng khi đó. Mối quan hệ giữa hai người trở nên căng thẳng đến mức chỉ nhờ có sự can thiệp của chú của hai người là Jean xứ Valois, Công tước xứ Berry, mới ngăn chặn được nước Pháp xảy ra một cuộc nội chiến.

Louis được cho là chịu trách nhiệm về cái chết của bốn vũ công tại một vũ hội hóa trang thảm khốc năm 1393 được gọi là Bal des Ardents. Bốn nạn nhân đã bị thiêu sống khi một ngọn đuốc do Louis cầm đến quá gần trang phục rất dễ cháy của họ. Hai vũ công khác mặc trang phục giống hệt nhau (một trong số đó chính là Charles VI) đã thoát khỏi số phận tương tự trong gang tấc.

Bị ám sát[sửa | sửa mã nguồn]

Vụ ám sát Louis trên đường Vieille du Temple.

Vào chủ nhật ngày 20 tháng 11 năm 1407, các Công tước đã tuyên thệ hòa giải long trọng trước triều đình Pháp. Nhưng chỉ ba ngày sau, Louis bị ám sát dã man trên đường phố Paris, theo lệnh của Jean Dũng cảm. Louis bị đâm khi đang cưỡi ngựa bởi 15 tên tội phạm đeo mặt nạ do Raoulet d'Anquetonville, một người hầu của Công tước xứ Bourgogne, cầm đầu.[6] Một người hầu bị thương nặng.

Jean vốn nhận được sự ủng hộ của người dân Paris, vì vậy ông ta có thể công khai thừa nhận việc giết người. Thay vì phủ nhận, Jean đã yêu cầu học giả Jean Petit của Sorbonne đưa ra lời biện minh cho việc giết chết Louis. Tuy nhiên, vụ ám sát Louis đã làm dấy lên mối thù đẫm máu giữa xứ Bourgogne và hoàng gia Pháp. Và cuộc nội chiến đã gây chia rẽ nước Pháp trong 28 năm tiếp theo, chỉ được kết thúc bằng Hiệp ước Arras vào năm 1435.

Hôn nhân và hậu duệ[sửa | sửa mã nguồn]

Tượng Louis d'Orléans trong sân của Château de Pierrefonds, của Frémiet.

Năm 1389, Louis kết hôn với Valentina Visconti,[7] con gái của Gian Galeazzo, Công tước xứ Milan. Vợ chồng họ có tám người con:

  • Một người con trai (sinh ra và mất ở Paris, ngày 25 tháng 3 năm 1390), được chôn cất tại Paris église Saint-Paul.
  • Louis (Paris, Hôtel de Saint-Pol, 26 tháng 5 năm 1391 - tháng 9 năm 1395), chôn cất tại Paris église des Célestins.
Tang lễ của Louis. Ảnh thu nhỏ từ Vigiles du roi Charles VII, khoảng năm 1484.
  • Jean (tháng 9 năm 1393 - Château de Vincennes, ngày 31 tháng 10 năm 1393), chôn cất Paris église des Célestins.
  • Charles (Hôtel royal de Saint-Pol, Paris, 24 tháng 11 năm 1394 - Château d'Amboise, Indre-et-Loire, 4 tháng 1 năm 1465),[7] cha của Louis XII, vua Pháp.
  • Philip (Asnières-sur-Oise, Val d'Oise, 21/24 tháng 6 năm 1396 - Beaugency, Loiret, 1 tháng 9 năm 1420).[7] Để lại một đứa con trai ruột Philip Anthony, còn được gọi là Kẻ du côn xứ Vertus, chết khoảng năm 1445; Không có hậu duệ.
  • Jean (24 tháng 6 năm 1399 – Château de Cognac, Charente, 30 tháng 4 năm 1467),[7] ông nội của François I.
  • Marie (Château de Coucy, Aisne, tháng 4 năm 1401 - chết ngay sau sinh).
  • Marguerite (4 tháng 9 năm 1406 - Abbaye de Laguiche, gần Blois, 24 tháng 4 năm 1466), kết hôn với Richard xứ Bretagne, Bá tước xứ Étampes.[8] Bà nhận được lãnh địa bá tước Vertus như của hồi môn. Tổ tiên của Công tước xứ Bretagne, Lãnh chúa xứ Chalon-Arlay và Thân vương xứ Oranje.

Với Mariette d'Enghien,[9] tình nhân của ông, Louis có một đứa con trai ngoài giá thú:

Hình ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Danh hiệu, danh dự[sửa | sửa mã nguồn]

  •  Vương quốc Pháp - Công quốc xứ Orléans: Đại công tước thứ nhất và Hiệp sĩ của Dòng Nhím mà ông thành lập nhân dịp lễ rửa tội của con trai ông là Charles.

Gia phả[sửa | sửa mã nguồn]


Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Hourihane 2012, tr. 224.
  2. ^ Keane 2016, tr. 17.
  3. ^ Engel, Ayton & Pálosfalvi 1999, tr. 169.
  4. ^ Warnicke 2000, tr. 106.
  5. ^ Parsons 1997, tr. ?.
  6. ^ Theis 1992, tr. 326-327.
  7. ^ a b c d Adams 2010, tr. 255.
  8. ^ George 1875, tr. table XXVI.
  9. ^ a b Potter 1995, tr. 373.

Tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

  • Adams, Tracy (2010). The Life and Afterlife of Isabeau of Bavaria. Johns Hopkins University Press.
  • Hourihane, Colum biên tập (2012). “Valois”. The Grove Encyclopedia of Medieval Art and Architecture. 2. Oxford University Press.
  • Engel, Pal; Ayton, Andrew; Pálosfalvi, Tamás (1999). The Realm of St. Stephen: A History of Medieval Hungary, 895-1526. 19. Penn State Press.
  • George, Hereford Brooke (1875). Genealogical Tables Illustrative of Modern History. Oxford Clarendon Press.
  • Keane, Marguerite (2016). Material Culture and Queenship in 14th-century France: The Testament of Blanche of Navarre (1331–1398). Brill.
  • Parsons, John Carmi (1997). Medieval Queenship. Palgrave Macmillan.
  • Potter, David (1995). A History of France, 1460-1560: The Emergence of a Nation State. St. Martin's Press.
  • Theis, Laurent (1992). Histoire du Moyen Âge Français. Perrin.
  • Warnicke, Retha M. (2000). The Marrying of Anne of Cleves: Royal Protocol in Early Modern England. Cambridge University Press.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Darwin, F. D. S. (1936) Louis d'Orléans (1372–1407): a necessary prologue to the tragedy of La Pucelle d'Orleans. London: John Murray
  • Jager, Eric. (2014). Blood Royal: a true tale of crime and detection in Medieval Paris. Little, Brown, and Co.