Mạnh Linh

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mạnh Linh
Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam
Nhiệm kỳ1983 – 1989
Tiền nhiệmDương Ngọc Đức
Kế nhiệmNguyễn Trọng Khôi
Phó giám đốc
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Phạm Văn Lạng
Ngày sinh
(1929-04-06)6 tháng 4, 1929
Nơi sinh
Yên Dũng, Hà Bắc
Giới tínhnam
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệpDiễn viên
Khen thưởngHuân chương Kháng chiến Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
Huân chương Kháng chiến Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
Huân chương Lao động Huân chương Lao động hạng Nhì
Huân chương Lenin
Danh hiệuNghệ sĩ Nhân dân (1988 – 1996)
Sự nghiệp điện ảnh
Năm hoạt động1958 – 1996
Vai diễnTướng Thuấn trong Tướng về hưu
Sự nghiệp sân khấu
Năm hoạt động1945 – 1996
Vai diễnHồ Chí Minh trong Bài ca Điện Biên

Mạnh Linh (6 tháng 4 năm 1929 – ?) là một nghệ sĩ sân khấu, diễn viên điện ảnh, nguyên Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam.[1][2] Ông đã được nhà nước Liên Xô trao tặng Huân chương Lenin và Bằng danh dự nghệ sĩ. Ông cũng từng được nhà nước Việt Nam trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân trong đợt phong thưởng lần thứ 2 năm 1988 nhưng đã bị tước bỏ danh hiệu sau khi ông phải nhận án tù vào năm 1996.[3][4]

Thời trẻ[sửa | sửa mã nguồn]

Mạnh Linh tên thật là Phạm Văn Lạng, sinh ngày 6 tháng 4 năm 1929 tại phủ Lạng Giang, huyện Yên Dũng, tỉnh Hà Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Giang).[5] Theo Địa chí Bắc Giang từ điển, ông sinh ra trong một gia đình thành thị nghèo, sau khi học hết lớp nhất thì bỏ học đi theo một gánh hát cải lương và đi khắp nơi đến tận Thừa Thiên Huế. Năm 1945, ông trở về phủ Lạng Giang và gia nhập gánh hát Xuân Đài. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, Mạnh Linh đã tham gia cướp chính quyền ở địa phương. Về sau, ông tham gia đoàn tuyên truyền của Hội Phật giáo cứu quốc.[6]

Tháng 5 năm 1948, ông tham gia thành lập đội tuyên truyền xung phong của Ty Thông tin Bắc Giang, sau chuyển thành Đoàn văn công nhân dân Bắc Giang. Mạnh Linh lần lượt được đề bạt làm Đoàn phó, rồi Đoàn trưởng và phụ trách Phòng Văn nghệ Ty Văn hóa, kiêm Chi hội trưởng Chi hội Văn nghệ Bắc Giang. Đến tháng 8 năm 1956, ông được điều về Đoàn văn công Trung ương.[6]

Phát triển sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1959, bộ phim truyện điện ảnh đầu tiên của miền Bắc Việt Nam sau 1954, đồng thời là phim truyện đầu tiên của điện ảnh Cách mạng Việt Nam ra đời. Mạnh Linh đã đảm nhận vai chính trong bộ phim ghi dấu ấn lịch sử cho điện ảnh Việt Nam này.[7]

Ông vốn là một nghệ sĩ sân khấu chuyên mảng kịch nói. Ông được xem là thế hệ diễn viên sân khấu thứ hai của Việt Nam sau Thế Lữ, Đào Mộng Long, Song Kim.[8] Lúc bấy giờ, Đoàn kịch nói Trung ương (nay là Nhà hát Kịch Việt Nam) chia làm 3 đoàn bao gồm Đoàn kịch Bắc, Đoàn kịch Nam bộ và Đoàn kịch Thanh niên. Mạnh Linh được phân công làm Đoàn trưởng Đoàn kịch Bắc.[9][10] Năm 1972, Dương Ngọc Đức trở thành đạo diễn kiêm Chỉ đạo nghệ thuật Nhà hát Kịch. Một thời gian sau, Dương Ngọc Đức được bổ nhiệm làm Giám đốc, còn Mạnh Linh cùng Lê Văn Sinh, Lê Trọng Sâm được bổ nhiệm làm Phó giám đốc.[11]

Vào giai đoạn đầu của Chiến tranh biên giới Việt–Trung năm 1979, đơn vị tự vệ của Nhà hát Kịch được thành lập. Mạnh Linh trở thành Chính trị viên của đơn vị.[12] Năm 1983, Dương Ngọc Đức nhậm chức Tổng thư ký của Hội nghệ sĩ sân khấu, Mạnh Linh trở thành người kế nhiệm vị trí Giám đốc Nhà hát Kịch Việt Nam.[11]

Diễn viên[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1970, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của lãnh tụ Vladimir Lenin, Mạnh Linh cùng Can Trường và Hoàng Uẩn được cử sang Liên Xô để chuẩn bị cho việc dựng vở kịch Chuông đồng hồ điện Kremlin.[13] Đây là vở kịch của mô tả bối cảnh nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười. Mạnh Linh được phân vào vai kỹ sư Zabolin, nhân vật được xây dựng dựa trên hình tượng Lenin.[14] Năm 1978, ông tiếp tục vào vai Lenin trong vở Khúc thứ ba bi tráng cũng nằm trong bộ 3 vở kịch có đề tài về Cách mạng Tháng Mười của nhà viết kịch người Liên Xô Nikolai Pogodin.[15][16] Sau khi vở kịch được công diễn đã nhận được nhiều lời khen từ khán giả cả nước.[17]

Sau thành công của 2 vở Chuông đồng hồ điện KremlinKhúc thứ ba bi tráng, Nhà hát Kịch Việt Nam quyết định hoàn thành nốt tác phẩm Người cầm súng, tác phẩm mở đầu cho bộ 3 thành tựu nghệ thuật xuất sắc nhất của Nikolai Pogodin.[18] Mạnh Linh tiếp tục nhận vai Lenin trong vở kịch này.[15] Sau 3 vở kịch của Nikolai, Mạnh Linh tiếp tục vào vai Lenin trong vở Con ngựa xanh trên thảm cỏ đỏ của Mikhail Shatrov. Việc liên tiếp thể hiện thành công vai diễn này, ông được cho là "đã gây ra một "cơn sốc" xúc động cho khán giả Việt Nam về vị lãnh tụ không chỉ của cách mạng Nga mà của cả cách mạng Việt Nam".[19] Năm 1984, nhân kỷ niệm 30 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, Nhà hát Kịch Việt Nam đã huy động hơn 200 diễn viên để dựng vở kịch Bài ca Điện Biên, trong đó người đóng vai chủ tịch Hồ Chí Minh chính là Mạnh Linh,[20] cũng là Giám đốc Nhà hát lúc bấy giờ.[21][22]

Dàn dựng[sửa | sửa mã nguồn]

Bên cạnh vai trò diễn viên, Mạnh Linh còn là người dàn dựng cho nhiều vở kịch đặc sắc của Nhà hát Kịch như vở Người thầy cũ của Thiết Vũ, Sư già và em bé của Kính Dân, Chiếc vuốt cọp của Thanh Hương.[11] Năm 1987, chuẩn bị cho chương trình Giao lưu sân khấu với bạn bè quốc tế, Nhà hát Kịch Việt Nam đã cử Mạnh Linh cùng Doãn Hoàng Giang và Doãn Châu sang Tiệp Khắc để nghiên cứu về Karel Čapek – nhà viết kịch hàng đầu của Tiệp Khắc, nổi tiếng với các tác phẩm chống Phát xít có giá trị cao. Sau khi ba người trở về, Nhà hát đã quyết định dựng vở kịch Bệnh trắng (tiếng Séc: Bílá nemoc)[23] – tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn này viết về mâu thuẫn giữa một bác sĩ mang tư tưởng hòa bình và một viên thống chế theo Phát xít.[24]

Với nhiều đóng góp sân khấu kịch, năm 1988, ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.[25][26]

Tai tiếng và cuối đời[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1996, khán giả Việt Nam bất ngờ trước tin Mạnh Linh liên quan đến vụ án xù nợ của con gái. Ông bị buộc tội đồng phạm với con gái trong việc vay tiền mà không trả được và phải nhận án 8 năm tù giam. Nhưng vì tuổi cao sức yếu (lúc này ông đã 70 tuổi) mà ông được về quê ở Gia Lương, Bắc Ninh để dưỡng bệnh cho đến khi hưởng lệnh đặc xá.[27] Đây cũng là nguyên nhân khiến cho ông bị tước danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân của Việt Nam.[28] Tính đến năm 2023, trường hợp của Mạnh Linh được xem là trường hợp duy nhất bị tước danh hiệu này.[29]

Sau khi được đặc xá, ông chuyển về sống tại Hà Nội cùng vợ và các cháu. Không rõ ông qua đời vào năm nào.[30]

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Sân khấu[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Vở kịch Nhân vật Tác giả Đạo diễn Chú Nguồn
1954 Những người ở lại Sơn Nguyễn Huy Tưởng NSND Thế Lữ [31]
1955 Chị Hòa Sơn Học Phi [a] [32]
1957 Đầu sóng ngọn gió Khả Nguyễn Hùng Vaxiliev [32]
1959 Một Đảng viên Minh Học Phi NSND Thế Lữ, NSND Trần Hoạt [a] [33][34]
1963 Đêm mưa Vịnh Tất Đạt NSND Dương Ngọc Đức, NSND Ngọc Phương [35][36]
1965 Lửa hậu phương Chủ tịch Đệ Kính Dân[b] Mạnh Linh, NSƯT Lại Phú Cương [37][38]
1968 Quê hương Việt Nam Bí thư Đoài Xuân Trình NSND Đình Quang [39][40]
1970 Đôi mắt Thành Vũ Dũng Minh NSND Dương Ngọc Đức [c] [41][42]
Chuông đồng hồ điện Kremlin Kỹ sư Zabolin[d] Nikolai Pogodin Lesli [14][43]
1974 Đại đội trưởng của tôi Sư trưởng Quỳnh NSƯT Đào Hồng Cẩm NSND Đình Quang [e] [32][44]
1977 Khúc thứ ba bi tráng Vladimir Lenin Nikolai Pogodin NSND Dương Ngọc Đức [c] [45][46]
Người cầm súng [6]
1979 Platon Krechet (ru) Chủ tịch Berest Oleksandr Korniychuk NSND Xuân Đàm [32]
Con ngựa xanh trên thảm cỏ đỏ Vladimir Lenin Mikhail Shatrov [19]
Quảng trường đỏ Vladimir Lenin [47]
1984 Bài ca Điện Biên Hồ Chí Minh Tất Đạt NSND Doãn Hoàng Giang, NSƯT Dương Viết Bát [19][48]
1985 Lịch sử và nhân chứng Hoài Giao NSND Doãn Hoàng Giang [49][50]

Điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên phim Vai diễn Đạo diễn Nguồn
1959 Chung một dòng sông Vận NSND Nguyễn Hồng Nghi, NSND Phạm Kỳ Nam[f] [52]
1962 Một ngày đầu thu Kiên Huy Vân, NSND Hải Ninh [53]
1963 Khói trắng Bí thư Đảng ủy Quyết NSƯT Nguyễn Tiến Lợi, Lê Thiều [54]
1979 Con chim biết chọn hạt Giám đốc NSƯT Vũ Phạm Từ [5]
1980 Đất mẹ Đại úy Giáp NSND Hải Ninh [55]
1986 Cuộc chia tay không hẹn trước Thứ trưởng Trương Đồng NSND Bạch Diệp [56]
Đứa con và người lính Trung đoàn trưởng Thừa Châu Huế [56]
1988 Tướng về hưu Tướng Thuấn NSND Nguyễn Khắc Lợi [57]
1989 Phận đời không muốn nhớ Bố Khoái Trần Quốc Huấn
1992 Vụ áp phe Đông Dương Tộc trưởng Vàng NSND Trần Đắc [8]

Truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên phim Vai diễn Đạo diễn Kênh Nguồn
1995 Những người sống bên tôi NSƯT Tất Bình VTV1
Lặng lẽ tuổi trăng tròn NSND Bạch Diệp
1996 Những người sống bên tôi (phần 2) NSƯT Tất Bình VTV3
Người Hà Nội Hoàng Tích Chỉ, Đoàn Lê

Khen thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Mạnh Linh có hai người con trai và hai người con gái. Người con trai cả của ông mất sớm, để lại cho ông bà 3 người cháu nội; con trai thứ từng nghiện ma túy, có hai người con trai nhưng cũng nhờ ông bà phụ giúp nuôi nấng. Một trong hai người con gái của ông là thủ phạm trong vụ án xù nợ năm 1996, chịu án đến năm 2003 thì hết hạn.[27]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b 1 trong 3 tác phẩm giúp nhà viết kịch Học Phi nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996.
  2. ^ tên thật Lê Như Dực.
  3. ^ a b 1 trong các tác phẩm giúp NSND Dương Ngọc Đức nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt IV năm 2012.
  4. ^ dựa trên hình tượng của Vladimir Lenin
  5. ^ 1 trong 3 tác phẩm giúp Đào Hồng Cẩm nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996.
  6. ^ nghệ danh Phạm Hiếu Dân.[51]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Đức Kiên (13 tháng 9 năm 2009). “Hậu "giám đốc" họ làm gì?”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2022.
  2. ^ Doãn Châu (2007), tr. 203.
  3. ^ Đỗ Văn Trụ & Phạm Vũ Dũng (2003), tr. 148.
  4. ^ Chu Thu Hằng (4 tháng 10 năm 2007). “Nghệ sĩ và sự vinh danh”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2022.
  5. ^ a b Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 211.
  6. ^ a b c Nguyễn Quang Ân (2002), tr. 438.
  7. ^ Dạ Vũ (14 tháng 4 năm 2014). 'Chung một dòng sông' và dấu ấn lịch sử phim Việt”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
  8. ^ a b Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 212.
  9. ^ “Lịch sử hình thành”. Nhà hát Kịch Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2022.
  10. ^ Doãn Châu (2007), tr. 61.
  11. ^ a b c Doãn Châu (2007), tr. 79.
  12. ^ Thạch Sơn (25 tháng 3 năm 1979). “Nhà hát Kịch trong tư thế chiến đấu”. Báo Nhân Dân. 9055: 3. ISSN 0866-7977. OCLC 951314970.
  13. ^ Nguyễn Thế Vinh (2003), tr. 47.
  14. ^ a b Doãn Châu (2007), tr. 78.
  15. ^ a b Doãn Châu (2007), tr. 107.
  16. ^ Mạnh Linh (1980). “I acted Lenin character - Je joue le rôle de Lénine” [Tôi đóng vai Lenin]. Tạp chí văn hóa nghệ thuật. 1 (30): 75–80. OCLC 36105639.
  17. ^ Doãn Châu (2007), tr. 102.
  18. ^ Đỗ Đức Hiếu (1984), tr. 240.
  19. ^ a b c Nguyễn Thị Minh Thái (1995), tr. 185.
  20. ^ Doãn Châu (2007), tr. 123.
  21. ^ Thùy Linh (9 tháng 4 năm 2013). “Nghệ sỹ Văn Hiệp qua đời”. Báo điện tử VTC News. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2022.
  22. ^ Cao Minh (4 tháng 9 năm 2012). “Kỷ niệm 24 năm ngày mất của nhà thơ-nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (29/8/1988-29/8/2012): Điều không thể mất”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2022.
  23. ^ Doãn Châu (2007), tr. 132.
  24. ^ Suvin (1986), tr. 842–844.
  25. ^ Văn phòng Bộ Văn hóa và Thông tin (2000), tr. 94.
  26. ^ Thanh Phàn (8 tháng 12 năm 1988). “114 nghệ sĩ được tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân và Nghệ sĩ ưu tú đợt 2”. Báo Sài Gòn giải phóng. 4169: 4. OCLC 1190867422.
  27. ^ a b “Nghệ sĩ Mạnh Linh vinh quang và cay đắng”. VnExpress. 23 tháng 4 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2022.
  28. ^ “Nghệ sĩ hoạt động tự do cũng được xét tặng danh hiệu”. Tuổi Trẻ Online. 16 tháng 8 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2022.
  29. ^ Bằng Linh (10 tháng 7 năm 2021). “Danh hiệu nghệ sĩ: Nếu không còn xứng đáng thì nên tự trả lại”. Báo Lao Động. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2022.
  30. ^ Anh Thư (17 tháng 2 năm 2022). “Diễn viên 'Tướng về hưu' sau 34 năm: Người qua đời, người bị ung thư”. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2022.
  31. ^ Lưu Quang Vũ (1979), tr. 79.
  32. ^ a b c d Nguyễn Thị Minh Thái (1995), tr. 184.
  33. ^ Doãn Châu (2007), tr. 41.
  34. ^ Obrazt︠s︡ova và đồng nghiệp (1984), tr. 31.
  35. ^ Xuân Trình (1995), tr. 161–162.
  36. ^ Doãn Châu (2007), tr. 50.
  37. ^ Doãn Châu (2007), tr. 68.
  38. ^ Kính Dân (1999), tr. 114.
  39. ^ Xuân Trình (1995), tr. 211.
  40. ^ An Nhiên (13 tháng 12 năm 2019). “Nhà viết kịch Xuân Trình - Người đi trước thời đại”. Báo Biên phòng. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2022.
  41. ^ Nguyễn Quang Ngọc (2003), tr. 728.
  42. ^ Doãn Châu (2007), tr. 81.
  43. ^ Ủy ban Nghệ thuật, Liên đoàn Nhà văn Liên Xô (1989). Театр (bằng tiếng Nga). 1–4. Искусство. tr. 154. ISSN 0131-6885.
  44. ^ Lê Hoài Nam (30 tháng 12 năm 2008). “Vở kịch "Đại đội trưởng của tôi" và chuyện kể của một vị tướng”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2022.
  45. ^ Nguyễn Thị Mỹ Dung (2001), tr. 235.
  46. ^ Babakhodzhaev (1990), tr. 107.
  47. ^ Nguyễn Thị Như Trang (2003), tr. 248.
  48. ^ Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2002), tr. 508.
  49. ^ Đoàn Ánh Dương (2020), tr. 57.
  50. ^ Nguyễn Vinh Phúc (2009), tr. 970.
  51. ^ Lê Thị Bích Hồng (30 tháng 4 năm 2020). “Đạo diễn Phạm Kỳ Nam: 'Chung một dòng sông' - phim truyện đầu tiên của Việt Nam”. Thể thao & Văn hóa. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2022.
  52. ^ Bùi Chu (1984), tr. 77.
  53. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 209.
  54. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 211.
  55. ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 805.
  56. ^ a b Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 213.
  57. ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 236.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Tiếng Việt
Khác