M1 Garand
M1 Garand hoặc Súng trường M1 là khẩu súng trường bán tự động và là súng trường chiến đấu của Hoa Kỳ trong Thế chiến II và Chiến tranh Triều Tiên.[1]
Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Thế chiến thứ hai (1939 - 1945)[sửa | sửa mã nguồn]


Trong Thế chiến 2, M1 Garand được sử dụng rộng rãi bởi Quân đội Hoa Kỳ. Nó nhận được nhiều lời khen ngợi nhờ các ưu điểm: tốc độ bắn khá cao, bền, dễ sử dụng, uy lực mạnh, bắn khá chính xác,... Nó giúp lính Mỹ chiếm ưu thế trước lính Đức (hay lính Nhật) chỉ được trang bị những khẩu súng trường bắn phát một Karabiner 98k (hay Arisaka Type 99).
Anh và các nước trong Khối Thịnh vượng chung (Canada, Ấn Độ, Úc, Trung Quốc,...), Liên Xô, Trung Quốc, Pháp Tự do... đều nhận được một vài lô súng M1 Garand do Hoa Kỳ cung cấp thông qua chương trình Lend - Lease, nhưng quân đội các nước này lại ít sử dụng đến nó (hoặc thậm chí là không sử dụng) vì họ cũng có riêng cho mình những mẫu súng trường chiến đấu khác không thua kém gì khẩu M1 Garand. Quân đội Anh và các nước Khối Thịnh vượng chung có khẩu Lee-Enfield, Hồng quân Liên Xô có khẩu Mosin-Nagant, Quốc dân Cách mệnh Quân của Quốc Dân Đảng thì dùng nhiều những khẩu súng trường Type 24 "Trung Chính" (tên tiếng Trung: 中正式) do Kho vũ khí Hán Dương của họ chế tạo theo mẫu của Đức, trong khi Bát lộ quân và Tân Tứ quân của Đảng Cộng sản Trung Quốc thì lại dùng nhiều những khẩu Mosin-Nagant (do Liên Xô viện trợ), Quân đội Pháp Tự do thì có khẩu MAS-36 và khẩu Lebel 1886. Quân đội Anh có kế hoạch thay thế Lee-Enfield bằng M1 Garand nhưng do chi phí quá đắt đỏ nên kế hoạch này đã bị quân đội Anh hủy bỏ và họ chấp nhận hiện đại hóa Lee-Enfield để sử dụng tiếp.
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)[sửa | sửa mã nguồn]
Trong thời gian Chiến tranh Triều Tiên diễn ra, Quốc quân Đại Hàn Dân Quốc và Quân đội Hoa Kỳ sử dụng 2 khẩu súng trường bán tự động M1 Garand và M1 Carbine hết sức rộng rãi. Đối chọi với họ là Quân đội Nhân dân Triều Tiên và Chí nguyện quân Trung Quốc sử dụng những khẩu Mosin-Nagant do Liên Xô viện trợ. M1 Garand được binh lính khen ngợi vì nó giúp họ chiếm thế thượng phong trước những khẩu súng trường bắn phát một Mosin-Nagant trên chiến trường. Qua hai đợt viện trợ, Hàn Quốc đã nhận được tổng cộng 296.450 khẩu M1 Garand từ Mỹ. Quân đội Hàn Quốc đã sử dụng M1 Garand trong giai đoạn đầu Chiến tranh Việt Nam.
Sau khi cuộc chiến ở Triều Tiên kết thúc, quân đội Hoa Kỳ đã bắt đầu triển khai một dự án thiết kế vũ khí mới để thay thế cho tất cả các mẫu vũ khí từ thời Thế chiến 2 của họ như: M1 Garand, M1 Carbine, Tiểu liên Thompson, M3 Grease Gun và M1918 BAR. Vào ngày 26 tháng 3 năm [[1958], Quân đội Hoa Kỳ chính thức đưa vào sử dụng M14, một mẫu súng trường tấn công sử dụng đạn 7,62×51mm NATO được phát triển trực tiếp từ M1 Garand.
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954)[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1950 đến năm 1964, Quân đội Pháp đã nhận được 232.500 khẩu M1 Garand do Hoa Kỳ cung cấp. Quân đội Pháp gọi khẩu súng này là Fusil semi-automatique 7 mm 62 (C. 30) M.1. Trong Chiến tranh Đông Dương, Quân đội Pháp và Quốc gia Việt Nam sử dụng khẩu M1 Garand và M1 Carbine với số lượng không nhỏ để thay cho những khẩu súng trường bắn phát một MAS-36 chậm chạp, lỗi thời. Từ sau năm 1951, Quân đội Pháp thay M1 Garand bằng MAS-49, một mẫu súng trường bán tự động sử dụng loại đạn 7,5x54mm do Người Pháp phát triển. Còn Quân đội Quốc gia Việt Nam thì vẫn tiếp tục sử dụng nó đến khi chuyển vào Nam theo hiệp định Geneve 1954. Quân đội nhân dân Việt Nam cũng thu được khá nhiều súng này từ Quân đội Pháp và Quốc gia Việt Nam sau các chiến dịch Chiến dịch Việt Bắc (1947) và Chiến dịch Biên giới (1950) nhưng bộ đội chủ lực của Việt Minh lại ít sử dụng đến khẩu súng này vì nó không sử dụng chung cỡ đạn 7.62×54mmR (của súng K-44) được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ.
Tại chiến trường Nam Bộ, tuy không được cung cấp trực tiếp từ trung ương nhưng các đơn vị chủ lực của Việt Minh đóng tại đây lại trang bị M1 Garand như là một chiến lợi phẩm thu được từ quân Pháp và Quốc gia Việt Nam. Họ gọi nó là: súng trường M1 Ga-răng (đọc phiên âm từ "Garand" theo tiếng Pháp).
Chiến tranh Việt Nam (1955-1975)[sửa | sửa mã nguồn]
Trong giai đoạn 1950-1975, Quân lực Việt Nam Cộng hòa (hay trước đó là Quân đội Quốc gia Việt Nam) đã nhận được khoảng 220.300 khẩu M1 Garand từ Hoa Kỳ. Bên cạnh được viện trợ thì quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng được trực tiếp kế thừa những khẩu M1 Garand mà Quân đội Pháp để lại ở Miền Nam Việt Nam sau năm 1954. M1 Garand được nhìn thấy sử dụng rộng rãi bởi các đơn vị vũ trang của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn đầu cuộc chiến (1955-1963). Từ năm 1967 trở đi thì nó dần bị thay thế bằng M16.
Ưu điểm và nhược điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Súng có nhiều ưu điểm như tốc độ bắn nhanh hơn nhiều so với súng trường bắn phát một, bền, dễ sử dụng, bắn khá chính xác, tầm bắn hiệu quả khá xa. Nhược điểm của súng là khá dài (1,1 m khi chưa gắn lưỡi lê) và tương đối nặng nề (khi chưa nạp đạn thì súng đã nặng tới 4,31 kg), lực giật khi bắn cũng khá mạnh. Hơn nữa, xạ thủ phải bắn hết đạn trong buồng đạn mới có thể nạp lại được đầy đạn vào trong buồng , vì vậy , vào cuối chiến tranh, đã có nhiều phiên bản thử nghiệm M1 Garand sử dụng loại băng đạn 20 viên có thể tháo rời của súng máy trung liên Browning M1918.
Các quốc gia sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]
Liên Hợp Quốc
Hoa Kỳ
Đế quốc Nhật Bản : Sao chép thành súng trường Type 5 garand để thử nghiệm, được sửa đổi dùng loại đạn 7,7×58mm Arisaka và gắn băng đạn 10 viên
Nhật Bản
Israel
Hàn Quốc
Đức Quốc xã : Tịch thu từ quân đội Mỹ trong Thế chiến 2 , được gọi là 7,62mm Selbstladegewehr 251(a)
Tây Đức : Nhận 46 750 khẩu M1 Garand từ Hoa Kỳ vào năm 1965
Đài Loan
Nhật Bản
Trung Quốc : Tịch thu từ các lực lượng Trung Quốc Quốc dân đảng trong Nội chiến Trung Quốc và Đồng Minh của Hàn Quốc trong Chiến tranh Triều Tiên
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Việt Minh
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Việt Nam : Dùng cho Đoàn 969
Colombia
Indonesia
Hà Lan : Được gọi là Geweer Garand 7,62mm trong quân đội Hà Lan
Argentina
Brasil
Cuba
Trung Quốc
Đan Mạch : Được gọi là Gevaer m/50
Ethiopia
Pháp
Đức
Hy Lạp
Iran
Ý
Jordan
Lào
Cộng hòa Nhân dân Campuchia
Campuchia
Na Uy
Pakistan
Panama
Paraguay
Philippines
Thái Lan
Thổ Nhĩ Kỳ
Uruguay
Venezuela
Liberia
Nam Phi
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Chú thích và tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- 10 loại súng trường hàng đầu mọi thời đại (P1).
- Hình ảnh các loại súng mà quân đội VN đã, đang và sắp sử dụng. Lưu trữ 2010-12-09 tại Wayback Machine
- Xem M1 Garand bắn.
- Xem M1 Garand bắn liên thanh.
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về M1 Garand. |
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Seijas, Bob. “History of the M1 Garand Rifle”. Garand Collectors Association (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2019.