M1 Garand
M1 Garand là khẩu súng trường bán tự động lừng danh của Hoa Kỳ trong Chiến tranh thế giới thứ hai và nửa thời gian đầu Chiến tranh Lạnh. Quân đội Hoa Kỳ sử dụng khẩu súng này với vai trò súng trường chiến đấu tiêu chuẩn trong một thời gian khá dài, từ năm 1936 đến năm 1957. Vào ngày 26 tháng 3 năm 1958, Quân đội Hoa Kỳ chính thức thay thế khẩu súng này bằng khẩu M14. Không chỉ có Hoa Kỳ mà có khá nhiều quân đội đồng minh của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh (như Hàn Quốc, Việt Nam Cộng hòa,...) cũng sử dụng khẩu súng này khá rộng rãi thông qua các gói viện trợ quân sự mà Hoa Kỳ dành cho các nước này.
Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Thế chiến thứ hai (1939-1945)[sửa | sửa mã nguồn]


Trong Thế chiến 2, M1 Garand là súng trường chiến đấu tiêu chuẩn mới của quân đội Hoa Kỳ thay cho 2 khẩu súng trường bắn phát một (bolt-action) từ thời thế chiến 1 là M1903 Springfield và M1917 "Enfield". Lính Mỹ khen ngợi khẩu súng này có tốc độ bắn khá cao nên giúp họ dành được ưu thế trước những khẩu súng trường bắn phát một phổ biến thời đó là Karabiner 98k (của Đức Quốc Xã) và Arisaka Type 99 (của Nhật Bản). Trong cuộc chiến này, bên cạnh biến thể của bộ binh thì Hoa Kỳ còn phát triển thêm 2 biến thể khác nữa là M1C Garand và biến thể phóng lựu đạn bằng loại ống phóng M7.
Anh và các nước trong Khối Thịnh vượng chung (Canada, Ấn Độ, Úc,...), Trung Quốc,... đều nhận được một vài lô súng M1 Garand do Mỹ viện trợ thông qua chương trình Lend - Lease với tư cách là đồng minh chống phát xít của Mỹ trong Thế chiến 2, nhưng quân đội các nước này lại ít sử dụng đến nó (hoặc thậm chí là không sử dụng) vì họ cũng có riêng cho mình những mẫu súng trường chiến đấu khác không thua kém gì khẩu M1 Garand.
M1 Garand cùng với những mẫu súng khác như Mosin-Nagant, SVT-40, Karabiner 98k, Gewehr 43, Lee-Enfield, Arisaka Type 38, Arisaka Type 99, M1903 Springfield, MAS-36,... đã trở thành những mẫu súng trường chiến đấu thành công nhất trong Thế chiến 2.
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953)[sửa | sửa mã nguồn]
Trong thời gian Chiến tranh Triều Tiên diễn ra, Quốc quân Đại Hàn Dân Quốc và Quân đội Hoa Kỳ sử dụng 2 khẩu súng trường bán tự động M1 Garand và M1 Carbine hết sức rộng rãi. Đối chọi với họ là Quân đội Nhân dân Triều Tiên và Chí nguyện quân Trung Quốc sử dụng những khẩu Mosin-Nagant do Liên Xô viện trợ. M1 Garand được lính Hàn Quốc khen ngợi vì nó giúp họ chiếm thế thượng phong trước những khẩu súng trường bắn phát một Mosin-Nagant trên chiến trường. Qua hai đợt viện trợ, Hàn Quốc đã nhận được tổng cộng 296,450 khẩu M1 Garand từ Mỹ. Sau khi cuộc chiến ở Triều Tiên "tạm thời" kết thúc vào tháng 6 năm 1953, giới quân sự Hoa Kỳ đã khẩn trương phát triển một mẫu súng trường tiến công mới để thay thế cho khẩu M1 và đồng thời cũng để tạo ra một "đối trọng" với khẩu AK-47 của Liên Xô. Vào năm 1957, khẩu M14 ra đời, áp dụng khoảng 45% thiết kế của khẩu M1.
Sự kiện Vịnh Con Lợn (17/4-19/4 năm 1961)[sửa | sửa mã nguồn]
Trong Sự kiện Vịnh Con Lợn, những người Cuba của chính quyền Fulgencio Batista sau khi bị Fidel Castro lật đổ nên đã chuyển qua Mỹ sống lưu vong tại các bang ở miền nam nước Mỹ với lòng thù hận chính quyền Fidel đã được CIA đào tạo sử dụng nhiều loại vũ khí Mỹ, trong số đó có rất nhiều là khẩu M1 Garand nhưng cuộc đổ bộ đã bị thất bại. Chính quyền Fidel Castro đã bắt giữ toàn bộ những kẻ thâm nhập trái phép và thu toàn bộ vũ khí.
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946-1954)[sửa | sửa mã nguồn]

Từ năm 1950 đến năm 1964, Quân đội Pháp đã nhận được 232,500 khẩu M1 Garand do Hoa Kỳ cung cấp. Quân đội Pháp gọi khẩu súng này là Fusil semi-automatique 7 mm 62 (C. 30) M. 1. Trong những ngày tháng đầu tiên của cuộc Chiến tranh Đông Dương, Pháp và Quốc gia Việt Nam sử dụng khẩu M1 Garand với số lượng không nhỏ để thay cho những khẩu súng trường bắn phát một MAS-36. Từ sau năm 1951, quân Pháp thay nó bằng MAS-49, một mẫu súng trường bán tự động do công ty Manufacture d'armes de Saint-Étienne, một công ty quốc doanh chuyên chế tạo và sản xuất vũ khí của Pháp, thiết kế và sản xuất hàng loạt. Còn Quân đội Quốc gia Việt Nam thì vẫn tiếp tục sử dụng nó đến khi thua trận vào ngày 7 tháng 5 năm 1954. Đối thủ của họ, Quân đội nhân dân Việt Nam cũng thu được khá nhiều súng này từ tù binh Pháp và Quốc gia Việt Nam nhưng bộ đội Việt Minh lại ít sử dụng khẩu súng này.
Tại chiến trường Nam Bộ, tuy không được cung cấp trực tiếp từ trung ương nhưng các đơn vị chủ lực của Việt Minh đóng tại đây lại trang bị M1 Garand như là một chiến lợi phẩm thu được từ quân Pháp và Quốc gia Việt Nam. Người dân miền Nam Việt Nam thường gọi loài súng này là súng trường M1 Ga-răng (đọc phiên âm từ "Garand" theo tiếng Pháp).
Chiến tranh Việt Nam (1955-1975)[sửa | sửa mã nguồn]
Trong giai đoạn 1955-1975, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã nhận được một lượng lớn súng đạn từ thời thế chiến 2 do Hoa Kỳ viện trợ, trong đó có khoảng 220.300 khẩu M1 Garand. Bên cạnh được Mỹ viện trợ thì quân Việt Nam Cộng Hòa cũng được trực tiếp kế thừa những khẩu M1 Garand mà quân Pháp để lại ở miền Nam Việt Nam sau năm 1954. Chúng được trang bị cho các lực lượng bán quân sự của Việt Nam Cộng hòa. Đối thủ chính của Quân lực Việt Nam Cộng hòa là Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng thu được khá nhiều súng này nên họ cũng sử dụng nó để giảm bớt sự phụ thuộc vào những khẩu AK-47 do Quân đội Nhân dân Việt Nam từ miền Bắc gửi vào qua đường Trường Sơn từ các gói hàng quân sự mà Trung Quốc và Liên Xô gửi. Sau khi chiến tranh kết thúc, Quân đội Nhân dân Việt Nam đưa khẩu súng này vào phục vụ trong biên chế của lực lượng dân quân tự vệ.
Nội chiến Lào và Nội chiến Campuchia[sửa | sửa mã nguồn]
Tương tự như Việt Nam Cộng hòa, chính phủ Cộng hòa Khmer và Chính phủ Hoàng gia Lào cũng nhận được súng M1 Garand từ Hoa Kỳ thông qua các gói viện trợ quân sự.
Ưu điểm và nhược điểm[sửa | sửa mã nguồn]
Súng có nhiều ưu điểm như tốc độ bắn nhanh hơn nhiều so với súng trường bắn phát một, lượng đạn dự trữ của M1 cũng nhiều hơn, độ chính xác khá cao, tầm bắn hiệu quả khá xa. Nhược điểm của súng là khá dài (1,1 m khi chưa gắn lưỡi lê) và tương đối nặng nề (khi chưa nạp đạn thì súng đã nặng tới 4,31 kg).
Các quốc gia sử dụng[sửa | sửa mã nguồn]
Liên Hiệp Quốc
Hoa Kỳ
Nam Việt Nam
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Việt Nam
Hàn Quốc
Colombia
Israel
Indonesia
Singapore
Malaysia
Đài Loan
Nhật Bản
Argentina
Brasil
Cuba
Trung Quốc
Đan Mạch
Ethiopia
Pháp
Đức
Hy Lạp
Iran
Ý
Jordan
Lào
Cộng hòa Nhân dân Campuchia
Campuchia
Na Uy
Pakistan
Panama
Paraguay
Philippines
Thái Lan
Thổ Nhĩ Kỳ
Uruguay
Venezuela
Liberia
Nam Phi
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland
Chú thích và tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- 10 loại súng trường hàng đầu mọi thời đại (P1).
- Hình ảnh các loại súng mà quân đội VN đã, đang và sắp sử dụng.
- Xem M1 Garand bắn.
- Xem M1 Garand bắn liên thanh.
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về M1 Garand. |