M2M

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
M2M
Nguyên quánLørenskog, Na Uy
Thể loạiPop, Teen-pop, Pop rock
Nhạc cụGhi-ta thường, piano, vocal
Năm hoạt động1993-2002
Hãng đĩaAtlantic Records, Warner Music

M2Mnhóm nhạc nữ phong cách pop đến từ Na Uy gồm hai thành viên nữ Marion RavenMarit Larsen. Họ đã phát hành 3 album với hãng đĩa Atlantic Records và Warner Music: 2 album phòng thu Shades of Purple, The Big Room và tuyển tập The Day You Went Away: The Best of M2M. Nhóm tan rã vào năm 2002.

Tuổi thơ và sự khởi đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Marit LarsenMarion Raven cùng sinh ra tại Lørenskog, một thị trấn nhỏ ở Na Uy. Hai người biết nhau lần đầu năm 1990, khi họ mới 6 và 7 tuổi,[1] và kể từ đó, hai người đã nhận ra họ có nhiều điểm chung, đặc biệt là cùng yêu âm nhạc và cùng có giọng hát rất hay. Lớn lên một chút, Marit và Marion càng trở nên thân thiết như hai chị em và năm 8 và 9 tuổi, họ phát hành album đầu tiên mang tên Synger Kjente Barnesanger tại Na Uy, gồm những bài hát dành cho trẻ em. Album không những nhanh chóng kiếm được cảm tình của khán giả và gây ngạc nhiên cho người nghe, mà còn mang lại cho nhóm một đề cử giải Spellemannprisen (được xem là giải Grammy của Na Uy).[2] Sau thành công đó, Marit và Marion bắt đầu viết những ca khúc nhạc pop cho sự nghiệp của mình.

Sự nghiệp thế giới[sửa | sửa mã nguồn]

1999–2000: Shades of Purple[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 13 tuổi, Marion đã sáng tác bài hát đầu tiên, "Girl in Your Dreams". Sau khi được nghe những giai điệu và lời ca của bài hát này, hãng thu âm Atlantic Records đã quyết định ký hợp đồng với hai người. Lúc đầu, họ muốn đặt tên nhóm là M&M, kết hợp hai chữ cái đầu của tên họ, thế nhưng nó lại trùng với một hãng kẹo (M&M's) và rapper nổi tiếng Eminem. Cuối cùng, sau khi hỏi ý kiến của người hâm mộ trên Internet, hai cô gái quyết định chọn M2M (Marion & Marit) là cái tên sẽ gắn bó với sự nghiệp của mình.[1]

Bộ đôi xuất hiện lần đầu trước công chúng với đĩa đơn đầu tiên, "Don't Say You Love Me", phát hành năm 1999 và đã cũng là đĩa đơn đầu tiên từ nhạc phim của bộ phim Pokémon: The First Movie.[3] Bộ phim đã giúp bài hát thành công trên toàn thế giới, lọt vào top 20 ở rất nhiều quốc gia như México, Brasil, Chile, Canada, Ireland, Vương quốc AnhHà Lan, đồng thời đạt chứng nhận vàng ở ÚcNew Zealand. Đĩa đơn cũng đạt vị trí thứ 5 trên Billboard Hot 100 Singles Sales và 21 trên Hot 100. Tháng 3 năm 2000, họ đã phát hành album phòng thu đầu tiên, Shades of Purple năm 2000, xuất hiện với vị trí số 1 ở nhiều nước châu Á, 89 trên Billboard 200 và lọt vào Top 40 ở hầu hết các nước khác.

4 đĩa đơn nữa từ album đã được phát hành: "Mirror Mirror", "The Day You Went Away", "Pretty Boy" và "Everything You Do". Các ca khúc này đều đặc biệt thành công ở châu Á, đưa M2M nhanh chóng trở thành ban nhạc được yêu thích trên toàn thế giới với những chuyến lưu diễn lớn. Đến tháng 4 năm 2000, Marit và Marion phải dừng các chuyến lưu diễn của mình để quay về quê nhà để tiếp tục công việc học tập của mình.[1]

2002: The Big Room và sự tan rã[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2002, bộ đôi trở lại với sự trưởng thành hơn, ít chất pop với album thứ hai, The Big Room. Trong 2 năm, giọng ca của họ đã có thay đổi, đặc biệt là Raven (hay chính xác hơn là từ album Shades of Purple phiên bản châu Á bằng Acoustic với 3 bài hát). Đĩa đơn đầu tiên từ album là "Everything" và sau đó là "What You Do About Me". Họ đã không ra đĩa đơn thứ ba, cho dù "Don't" đã phát hành ở Hoa Kỳ và trên radio các nước Mỹ Latinh, và "Wanna Be Where You Are" đã phát hành ở Philippines. Album không đạt được thành công như album trước ở thị trường Mỹ, thậm chí là thất bại thảm hại về doanh thu ở đây; tuy nhiên, nó vẫn đạt rất thành công ở thị trường châu Á và đạt đến chứng nhận 5× Bạch kim ở Philippines.

Trong quá trình quảng cáo cho album, họ đã có mặt trên các kênh truyền hình năm đó, ví dụ như xuất hiện trong tập thứ 100 của chương trình truyền hình Dawson's Creek trên kênh WB Hoa Kỳ.[4] Năm đó, họ cũng tham gia vào Pantene Pro-Voice concert series đã được phát sóng trên MuchMusic của Canada và biểu diễn trong một buổi hoà nhạc của Disney Channel với ban nhạc nước Anh BBMak.[5] (2000)

Trong khi đang lưu diễn với ca sĩ Jewel[4][6] trong năm đó, M2M bị hãng Atlantic bỏ rơi với lý do là doanh thu bán ra không đủ. Dù họ là nhóm nhạc nữ nổi tiếng nhất Na Uy, nhóm nhạc thành công nhất và nghệ sĩ trẻ nhất có được một sự nghiệp quốc tế sau a-ha, nhưng cuối cùng bộ đôi cũng tan rã tháng 9 năm đó. Hiện nay họ là những ca sĩ hát đơn với tên riêng của họ.

Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Album phòng thu[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Chi tiết album Vị trí xếp hạng Doanh số Chứng nhận
US
[7]
AUS
[8]
NOR
[9]
2000 Shades of Purple
  • Album phòng thu đầu tiên
  • Phát hành: 7 tháng 3 năm 2000
  • Hãng đĩa: Atlantic
89 7
  • Hoa Kỳ: 800.000
  • Thế giới: 5 triệu
2002 The Big Room
  • Album phòng thu thứ hai
  • Phát hành: 5 tháng 3 năm 2002
  • Hãng đĩa: Atlantic
98 16
  • IFPI: 2× Bạch kim
  • PARI: 3× Bạch kim
  • AMPF: Vàng
2003 The Day You Went Away: The Best of M2M
  • Album Greatest hits
  • Phát hành: 8 tháng 7 năm 2003
  • Hãng đĩa: Atlantic
"—" nghĩa là không được phát hành ở quốc gia đó hoặc không lọt vào bảng xếp hạng

Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên đĩa dơn Vị trí xếp hạng cao nhất Chứng nhận Album
US
[10]
CAN
[10]
FIN
[11]
NL
[12]
NOR
[9]
AUS
[13]
NZ
[14]
UK
[15]
1999 "Don't Say You Love Me" 21 12 10 16 2 4 4 16 Shades of Purple
2000 "Mirror Mirror" 62 13 30
"The Day You Went Away"
"Pretty Boy"
"Everything You Do"
"Girl in Your Dreams"
2002 "Everything" 6 27 44 The Big Room
"What You Do About Me" 46
"Wanna Be Where You Are"
"—" nghĩa là không lọt được vào bảng xếp hạng hoặc không được phát hành ở quốc gia đó.

Giải thưởng và đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

  • M2M đã được đề cử hạng mục "Ca khúc xuất sắc nhất" và đoạt giải thưởng danh giá "Nhóm nhạc Na Uy xuất sắc nhất" tại Norway's HitAwards 2000.
  • Tháng 6 năm 2000, M2M đã được coi là "Tài năng mới phát hiện của năm" bởi công ty Singapore Radio.[18]
  • M2M đã được đề cử "Nhóm nhạc xuất sắc nhất" tại giải Spellemannprisens năm 2001.
  • M2M đã được đề cử "Thể hiện nhạc pop xuất sắc nhất " tại giải thưởng âm nhạc năm 2002 của MTV châu Á.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c “Tiểu sử M2M”. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2010.
  2. ^ NLĐ (ngày 25 tháng 7 năm 2005). “Marion Raven - Gương mặt nóng nhất tại châu Á”. Dân trí. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2010.
  3. ^ “Pokemon Soundtrack Stacked With Exclusive Songs”. billboard.com. 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2010.
  4. ^ a b “M2M Visits 'Dawson's Creek,' To Tour With Jewel This Summer”. Yahoo! Music. ngày 17 tháng 4 năm 2002. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2010.
  5. ^ Jonathan Cohen (2001). “Atlantic Launches 'Teensation' TV Concerts”. billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2010.
  6. ^ Barry A. Jeckell (2002). “Jewel Takes Labelmate M2M On The Road”. billboard.com. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2010.
  7. ^ "Billboard 200 chart positions". billboard.com. Truy cập 24 tháng 5 năm 2010
  8. ^ "ARIA Australia chart positions Lưu trữ 2011-02-16 tại Wayback Machine". ariacharts.com. Truy cập 24 tháng 5 năm 2010
  9. ^ a b "Norwegian chart positions". norwegiancharts.com. Truy cập 1 tháng 6 năm 2010
  10. ^ a b “allmusic (((M2M > Charts & Awards > Billboard Singles)))”. Allmusic. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  11. ^ “Finnish charts portal”. finnishcharts.com. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2010.
  12. ^ “Dutch charts portal”. dutchcharts.nl. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  13. ^ “Australian charts portal”. australian-charts.com. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2010.
  14. ^ “New Zealand charts portal”. charts.org.nz. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2010.
  15. ^ “Chart Stats - M2M”. chartstats.com. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2010.
  16. ^ a b “Chứng nhận của M2M tại Mỹ”. RIAA. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2012.
  17. ^ “ARIA Charts - Accreditations - 2000 Singles”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2011.
  18. ^ Hip Online (2003). “M2M Awards”. Hiponline.com. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2010.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]