NGT48

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

NGT48 (tiếng Nhật: エヌジーティー フォーティーエイト, chuyển tự Enujītī fōtīeito, tiếng Anh: N.G.T. Forty-eight) là nhóm nhạc nữ thần tượng Nhật Bản được thành lập bởi Akimoto Yasushi[1], đây là nhóm nhạc chị em thứ 4 của AKB48 tại Nhật Bản ra mắt năm 2015. Nhóm được đặt theo tên thành phố Niigata, tỉnh Niigata và có nhà hát NGT48 Theater nằm ở tầng 4 trung tâm mua sắm LoveLa2 ở thành phố Niigata[2][3]

NGT48
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánNiigata,  Nhật Bản
Thể loạiJ-pop
Năm hoạt động2015–nay
Công ty quản lý
Vernalossom (2015–2020)
Flora Co., Ltd. (2020–nay)
Hãng đĩa
Ariola Japan (2017–2020)
EMI Records Japan (2020–nay)
Hợp tác vớiAKB48 Group
Thành viênThành viên hiện tại
Websitengt48.jp

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

2015–2018: Ra mắt & những bước tiến đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Vào ngày 25/1/2015, tại ngày cuối cùng concert AKB48 Request Hour Setlist Best 1035, AKS công bố thành lập NGT48. Vào ngày 26/3, tại concert AKB48 Spring Concert 〜Jikiso Imada Shugyouchu!〜(AKB48春の単独コンサート~ジキソー未だ修行中!~), AKB48 thông báo Kitahara Rie sẽ chuyển sang NGT48 làm đội trưởng và Kashiwagi Yuki kết thúc kiêm nhiệm với NMB48 và làm thành viên kiêm nhiệm cho nhóm[4] Vào ngày 21/8, nhóm ra mắt thể thệ đầu tiên[5]. Vào tháng 10, công ty Kuriyama Beika có trụ sở tại Niigata (栗 山 米菓) bổ nhiệm NGT48 làm đại sứ thương hiệu cho sản phẩm bánh gạo bakauke[6]. Nhóm trình diễn tại Asia Song Festival 2015 tại Busan, Hàn Quốc vào ngày 11/10.[7]

Vào tháng 12, NGT48 hợp tác với McDonald's để ra mắt suất gà viên chiên Chicken McNuggets bán tại Nhật Bản. Mỗi suất có ảnh của NGT48 và đi kèm với thẻ sưu tập ảnh của thành viên ngẫu nhiên trong nhóm[8][9][10][11]. Nhóm mở nhà hát NGT48 Theater nằm ở tầng 4 trung tâm mua sắm LoveLa2 vào ngày 10/1/2016, nhóm trình diễn stage đầu tiên "PARTY ga Hajimaru yo" đồng thời thông báo thành lập Team NIII.[3][12][13]

Các thành viên nhóm tham gia bộ phim Higurashi When They Cry phát sóng ngày 20/5/2016 trên kênh BS SKY PerfecTV! [14][15][16], nhóm cũng thu âm bài nhạc phim "Kimi wa Doko ni Iru?", bài sau đó nằm trong bản Theater Edition thuộc single thứ 44 "Tsubasa wa Iranai" của AKB48 ra mắt ngày 1/6[15][16][17][18][19][20].

Nhóm ra mắt single đầu tay "Seishun Dokei" dưới hãng đĩa Ariola Japan thuộc Universal Music ngày 12/4/2017[21], cùng single thứ 2 Sekai wa Doko Made Aozora na no ka? vào ngày 6/12[22]. 2 thành viên Yamada Noe & Hasegawa Rena đại diện nhóm tham gia chương trình thực tế sống còn Produce 48[23], Hasegawa bị loại ở vòng loại 1 khi xếp hạng 71, còn Yamada bị loại ở vòng loại 2 khi xếp hạng 41. Nhóm ra mắt 2 single trong năm 2018 là Haru wa Doko kara kuru no ka? (11/4)[24] và Sekai no Hito e (3/10)[25]

2018–nay: Nỗ lực tái thiết[sửa | sửa mã nguồn]

Sau vụ việc đội phó Yamaguchi Maho bị tấn công tại nhà riêng, trong cuộc họp báo vào ngày 29/3/2019, chính quyền thành phố Niigata thông báo họ sẽ cắt đứt quan hệ với NGT48 từ tháng 4, bao gồm kết thúc chương trình phát thanh "Port de NGT." của nhóm[26]. Ngày 11/4, sau khi xin lỗi chính quyền Niigata vì xử lý sai các cáo buộc Yamaguchi bị hành hung, AKS tuyên bố sẽ tiến hành giải thể toàn bộ cấu trúc thành viên của nhóm hiện tại, như là một phần trong kế hoạch để "khởi động lại" nhóm sau scandal. Cả 2 team NIII và G đều tổ chức các buổi biểu diễn cá nhân cuối cùng tại NGT48 Theater vào ngày 21/4, sau đó NGT48 sẽ tiến hành hoạt động "tái thiết" lại với đội hình tạo thành từ các thành viên hoạt động tích cực, cùng nhau tạo thành "Thế hệ đầu tiên" cùng với các thực tập sinh được đào tạo từ lâu với khao khát được trở thành thành viên chính thức[27][28][29]. Vào ngày 17/4, Kashiwagi Yuki thông báo sẽ rút khỏi NGT48, buổi biểu diễn cuối cùng của cô cùng team NIII tổ chức ngày ngày 21/4[30], Vào ngày 21/4, Yamaguchi Maho, Hasegawa Rena và Sugahara Riko thông báo sẽ tốt nghiệp NGT48 vào ngày 18/5[31][32][33].

Vào ngày 21/5, Kato Minami bị giáng cấp làm thực tập sinh sau khi đăng story trên Instagram về lễ tốt nghiệp của Yamaguchi với chú thích "Mặc dù tôi đang làm móng tay, tôi vẫn muốn kêu ai đó chuyển kênh đi."[34][35][36]Ngay sau đó công ty đã buộc tất cả các thành viên NGT48 ngừng hoạt động trên các trang mạng xã hội, các thành viên đã đăng bài đăng cuối cùng lên Twitter.[35][37] Vào ngày 18/7, Murakumo Fuka thông báo tốt nghiệp và có buổi biểu diễn tốt nghiệp vào cuối tháng 8[38]

Sau 7 tháng ngừng hoạt động, nhóm có buổi biểu diễn đầu tiên tại Tokyo Idol Festival 2019 vào ngày 3/8, với kế hoạch hoạt động trở lại vào mùa thu[39]. Vào ngày 26/8, Sato Anju thông báo sẽ tốt nghiệp vào ngày 25/9[40]. Vào ngày 18/2/2020, Moeka Takakura thông báo sẽ tốt nghiệp nhóm vào ngày 22/3[41], nhà hát tạm dừng hoạt động từ ngày 26/2 do ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19 tại Nhật Bản, đến ngày 1/4 công ty quản lý Flora tiếp quản nhóm[42], nhóm ra mắt single thứ 5 Sherbet Pink vào ngày 22/7[43], đến ngày 11/10 nhóm mở lại nhà hát[44]

Vào ngày 23/6/2021, nhóm ra mắt single thứ 6 Awesome[45], đến ngày 5/7 nhóm mở chương trình radio NGT48のえっさこいさRADIO[46], nhóm thông báo Ogino Yuka sẽ tổ chức buổi biểu diễn tốt nghiệp vào ngày 30/10 tại trung tâm hội nghị Toki Messe.[47] Vào ngày 31/10, nhóm thông báo sẽ ra mắt single thứ 7 Ponkotsu na Kimi ga Suki da vào ngày 22/12[48][49], cùng ngày Yamada Noe tuyên bố tốt nghiệp & giải nghệ vào tháng 2/2022[50]. Nhóm thông báo tuyển sinh thế hệ thứ 3 vào ngày 11/1/2022[51]

Tranh cãi[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm nhận nhiều chỉ trích sau vụ việc Yamaguchi Maho bị 2 người đàn ông tấn công và theo đuôi đến tận nhà riêng vào 8/12/2018, tuy nhiên phải đứng ra xin lỗi trước công chúng sau đó. Cô đã công khai sự việc trên showroom và Twitter cá nhân vào ngày 8/1/2019. Cụ thể, cô kể mình đã bị tấn công bởi 2 người đàn ông lạ mặt, mà cô tin rằng một thành viên khác trong nhóm đã bí mật liên lạc và cho họ địa chỉ của cô, và cho dù cô đã thông báo với công ty chủ quản, những người quản lý vẫn im lặng và che đậy nó trong suốt một tháng trời. Khi cô cố gắng thoát ra thì bị một người đàn ông khác từ căn hộ đối diện (là nhà của một thành viên khác của NGT48) giữ lại. Lúc đó, cô đã nghĩ mình sẽ chết. Cô chỉ trốn ra được nhờ tiếng chuông mở thang máy làm hai kẻ này phân tâm.

Ngay lập tức, Maho đã báo cảnh sát. Hai kẻ tấn công bị bắt, nhưng được thả sau đó khi bao biện rằng mình chỉ muốn "trò chuyện" chứ không định tấn công Yamaguchi Maho, sau đó quản lý của NGT48 không muốn công bố sự việc và bắt Maho phải giữ im lặng[52]. Đáng chú ý, Maho còn nói "bóng gió" rằng có các thành viên cùng nhóm liên quan đến sự việc này. Maho cho biết một người đã bán thông tin cá nhân của cô cho những kẻ tấn công. Trước đó, Maho phát hiện ra chuyện xấu của thành viên này nên bị người này "dằn mặt".[53]

Một vài ngày sau khi sự việc được phanh phui, NGT48 đã tổ chức một buổi biểu diễn đặc biệt để kỷ niệm 3 năm ra mắt nhà hát vào ngày 11/1/2019. Yamaguchi cũng tham gia buổi biểu diễn. Sau khi hát, cô đã xin lỗi vì gây ra nhiều phiền phức, rằng cô đã trao đổi với Giám đốc quản lý và sẽ tiếp tục hoạt động với tư cách một thành viên của NGT48. Cô cũng thể hiện mong muốn công chúng tiếp tục ủng hộ cho NGT48.[54]

Ngay sau khi Yamaguchi xin lỗi, cũng trong đêm đó, Giám đốc quản lý thay mặt công ty cũng có phát ngôn trên trang web chính thức. Họ một lần nữa khẳng định kết luận của cảnh sát và nhấn mạnh rằng không có thành viên nào có liên quan tới vụ việc. Tuy nhiên, họ cũng thừa nhận rằng có một thành viên trong nhóm đã vô tình để lộ cho người lạ biết về thời gian mà Yamaguchi về nhà. Để phòng tránh tai nạn tương tự có thể xảy ra, họ sẽ cấp cho tất cả các thành viên thiết bị báo động chống trộm và tiến hành bảo vệ quanh nhà của các thành viên. Dĩ nhiên, họ cũng sẽ quan tâm hơn đến các chấn động tâm lý của Yamaguchi Maho. Mặc dù Giám đốc quản lý đã xin lỗi chính thức trước công chúng, nhưng dường như mọi người vẫn rất tức giận, vì thế họ đã tổ chức một buổi họp báo vào ngày 14/1 và xin lỗi một lần nữa.[55]

Không chỉ riêng người hâm mộ, tất cả mọi người đều cảm thấy không công bằng cho nạn nhân. Sashihara Rino tuyên bố Yamaguchi không nên là người phải xin lỗi. Truyền thông quốc tế cũng bắt đầu đưa tin về vụ việc và bắt đầu xuất hiện hashtag Justice for Maho (Đòi công bằng cho Maho), đồng thời lên án quản lý NGT48 đã không xử lý theo cách mà họ phải làm[56][57]. Quá bất ngờ trước phản ứng dữ dội từ dư luận, AKS phải lên tiếng xin lỗi và sa thải quản lý nhóm NGT48 Etsuro Imamura, đồng thời cho biết Hayakawa Maiko sẽ lên thay thế, tuy nhiên, lý do không phải là giáng chức Imamura, mà bởi vì một quản lý nữ có thể hiểu cảm giác của các thành viên nữ dễ dàng hơn nhiều.[58]

Vào ngày 1/5/2019, AKS đã đệ đơn kiện những kẻ tấn công Yamaguchi với số tiền 30 triệu Yên và tuyên bố vụ bê bối đã làm gián đoạn sự kiện của họ và khiến họ thiệt hại 100 triệu Yên[59][60] Vụ kiện đã được giải quyết vào ngày 9/4/2020, với việc 2 người đàn ông bị phạt với số tiền hàng triệu Yên và bị cấm tham gia các sự kiện trong tương lai liên quan đến AKB48 Groups. Luật sư của AKS Kazuhiro Endo cũng tuyên bố các thành viên NGT48 không phạm tội đồng lõa và Yamaguchi sẽ không nhận được bất kỳ khoản bồi thường nào do cô không còn là một phần của AKB48 Group[61].

Nhà hát[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm mở nhà hát NGT48 Theater đặt tại tầng 4 trung tâm mua sắm LoveLa2 ở thành phố Niigata từ ngày 10/1/2016[2][3] với sức chứa 295 khán giả, hiện bà Hayakawa Maiko đang là quản lý nhà hát. Theo thông lệ, thành viên sẽ tháo bỏ tấm chân dung ở hội trường nhà hát khi chính thức tốt nghiệp, giống các nhóm nhạc chị em khác của AKB48.

Các buổi diễn tại nhà hát (Stage)[sửa | sửa mã nguồn]

Thế hệ thứ nhất
Năm Tên Thời gia n
2019 Yume wo Shinaseru Wake ni Ikenai

(夢を死なせるわけにいかない)

18/8-nay
Team NIII
Năm Tên Thời gian
2016 PARTY ga Hajimaru yo

(PARTYが始まるよ)

10/1-15/5
Pajama Drive

(パジャマドライブ)

28/5-6/5/2017
2017-2018 Hokori no Oka

(誇りの丘)

2/7/2017-23/6/2018
2018-2019 30/6/2018-21/4/2019
Team G
Năm Tên Thời gian
2018 Saka Agari

(逆上がり)

1/7-21/4/2019
Kenkyuusei
Năm Tên Thời gian
2016 Natsu no Nijikai PARTY

(夏の二次会PARTY)

8/9-6/10
Party ga Hajimaru yo・Galveston Dori

(PARTYが始まるよ・ガルベストン通り)

13/10-29/10
Party ga Hajimaru yo・Echigo Yuki Tsubaki

(PARTYが始まるよ・えちご雪椿)

12/11-24/6/2018
2018 Party ga Hajimaru yo ~ Kenkyuusei no Ibuki wo Kanjite! ~

(PARTYが始まるよ〜研究生の息吹を感じて!〜)

1/7-21/4/2019

Thành viên[sửa | sửa mã nguồn]

Thành viên hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]

Thế hệ thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Ngày sinh Ghi chú
Satō Anju (佐藤杏樹?) 5 tháng 11, 2001 (22 tuổi)
Seiji Reina (清司麗菜?) 19 tháng 4, 2001 (22 tuổi)
Nishigata Marina (西潟茉莉奈?) 16 tháng 10, 1995 (28 tuổi)
Nishimura Nanako (西村菜那子?) 11 tháng 8, 1997 (26 tuổi)
Yamada Noe (山田野絵?) 7 tháng 10, 1999 (24 tuổi) Thông báo tốt nghiệp
Oguma Tsugumi (小熊倫実?) 15 tháng 12, 2002 (21 tuổi)
Kado Yuria (角ゆりあ?) 22 tháng 5, 2000 (23 tuổi) Đội trưởng, Thông báo tốt nghiệp[62]
Kusakabe Aina (日下部愛菜?) 6 tháng 2, 2002 (22 tuổi) Thông báo tốt nghiệp[63]
Nakai Rika (中井りか?) 23 tháng 8, 1997 (26 tuổi)
Nakamura Ayuka (中村歩加?) 28 tháng 7, 1998 (25 tuổi)
Nara Miharu (奈良未遥?) 20 tháng 3, 1998 (26 tuổi)
Homma Hinata (本間日陽?) 10 tháng 11, 1999 (24 tuổi)

Thế hệ Draft thứ 3[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Ngày sinh Ghi chú
Ando Chikana (安藤千伽奈?) 13 tháng 1, 2001 (23 tuổi)
Satō Kairi (佐藤海里?) 5 tháng 8, 2000 (23 tuổi)
Tsushima Yunako (對馬優菜子?) 20 tháng 8, 2001 (22 tuổi)
Fujisaki Miyu (藤崎未夢?) 17 tháng 11, 2000 (23 tuổi)

Thế hệ thứ 2[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Ngày sinh Ghi chú
Ogoe Haruka (小越春花?) 26 tháng 6, 2004 (19 tuổi)
Sayaka Kawagoe (川越紗彩?) 14 tháng 10, 2000 (23 tuổi)
Sogabe Yume (曽我部優芽?) 16 tháng 3, 2002 (22 tuổi)
Terada Hina (寺田陽菜?) 13 tháng 3, 2004 (20 tuổi)
Tominaga Yū (富永夢有?) 16 tháng 7, 2002 (21 tuổi)
Furusawa Ai (古澤愛?) 1 tháng 10, 2000 (23 tuổi)
Furutate Aoi (古舘葵?) 10 tháng 8, 2004 (19 tuổi)
Mashimo Kaho (真下華穂?) 8 tháng 11, 1999 (24 tuổi)
Mimura Hino (三村妃乃?) 15 tháng 6, 2002 (21 tuổi)
Morohashi Hinata (諸橋姫向?) 4 tháng 1, 2003 (21 tuổi)
Ōtsuka Nanami (大塚七海?) 7 tháng 11, 2000 (23 tuổi)

Cựu thành viên[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Ngày sinh Team Ghi chú
Mizusawa Ayaka (水澤彩佳) 5 tháng 11, 1994 (29 tuổi) Kenkyūsei Tốt nghiệp ngày 31/3/2017[64]
Ōtaki Yuria (大滝友梨亜) (1995-04-21)21 tháng 4, 1995 Tốt nghiệp ngày 31/10/2017
Kitahara Rie (北原里英) (1991-06-24)24 tháng 6, 1991 Team NIII Tốt nghiệp ngày 18/04/2018
Miyajima Aya (宮島亜弥?) (1997-11-27)27 tháng 11, 1997 Tốt nghiệp ngày 7/8/2018
Takahashi Mau (髙橋真生?) (2001-06-03)3 tháng 6, 2001 Tốt nghiệp ngày 6/10/2018
Hagiri Runa (羽切瑠菜?) (1999-11-29)29 tháng 11, 1999 Kenkyūsei Từ chức ngày 10/3/2019
Kashiwagi Yuki (柏木由紀?) (1991-07-15)15 tháng 7, 1991 Team NIII Rời nhóm ngày 21/4/2019
Yamaguchi Maho (山口真帆?) (1995-09-17)17 tháng 9, 1995 Thế hệ thứ nhất Tốt nghiệp ngày 18/5/2019
Sugahara Riko (菅原りこ?) (2000-11-23)23 tháng 11, 2000
Hasegawa Rena (長谷川玲奈?) (2001-03-15)15 tháng 3, 2001
Yamazaki Mirii (山崎美里衣?) (2000-11-21)21 tháng 11, 2000 Kenkyūsei Tốt nghiệp ngày 12/6/2019
Takazawa Tomoka (高沢朋花?) (2003-06-01)1 tháng 6, 2003 Tốt nghiệp ngày 30/6/2019
Watanabe Ayusa (渡邉歩咲?) (2001-03-09)9 tháng 3, 2001
Takakura Moeka (高倉萌香?) (2001-04-23)23 tháng 4, 2001 Thế hệ thứ nhất Tốt nghiệp ngày 23/3/2020
Tano Ayaka (太野彩香?) (1997-07-20)20 tháng 7, 1997 Tốt nghiệp ngày 31/10/2020
Kato Minami (加藤美南?) (1999-01-15)15 tháng 1, 1999 Tốt nghiệp ngày 31/1/2021
Murakumo Fūka (村雲颯香?) 5 tháng 7, 1997 (26 tuổi) Tốt nghiệp ngày 8/1/2019
Ogino Yuka (荻野由佳?) 16 tháng 2, 1999 (25 tuổi) Thông báo tốt nghiệp
Takahashi Nanami (高橋七実?) 7 tháng 7, 2001 (22 tuổi) Kenkyūsei Tốt nghiệp ngày 31/3/2020
Komiyama Sara (小見山沙空?) 27 tháng 7, 2004 (19 tuổi) Thế hệ thứ 2 Tốt nghiệp ngày 31/12/2021

Nhóm nhỏ[sửa | sửa mã nguồn]

Các nhóm nhỏ cho đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

  • Senbatsu (選抜)
  • NGT48 Dance Senbatsu (NGT48ダンス選抜)
  • SNS Senbatsu (SNS選抜)
  • Real Gasukei Senbatsu (リアル学生選抜)
  • Nakai Rika to Los Indios (中井りかとロス・インディオス)
  • Furusato Team (ふるさとチーム)
  • NGT48 Shodai Uta Senbatsu (NGT48初代うた選抜)
  • Dou Tennen & Fushigichan All Stars (ど天然&不思議ちゃんオールスター)
  • Sexy 6 (セクシー6)
  • Niigata GENKI Senbatsu (新潟GENKI選抜)
  • Niigata SHOWROOM Senbatsu (新潟SHOWROOM選抜)
  • Niigata Friend Senbatsu (にいがったフレンド選抜)
  • Chicchaimon Club (ちっちゃいもんくらぶ)

Danh sách sự kiện[sửa | sửa mã nguồn]

Các cuộc tổng tuyển cử[sửa | sửa mã nguồn]

Do là nhóm chị em thuộc AKB48 Group nên nhóm cũng tham gia các cuộc tổng tuyển cử cùng AKB48 cùng các sự kiện khác

  • 2015: AKB48 41st Single Senbatsu Sousenkyo (AKB48 41stシングル選抜総選挙?) [65]
  • 2016: AKB48 45th Single Senbatsu Sousenkyo 〜Bokutachi wa Dare ni Tsuiteikeba ii?〜 (AKB48 45thシングル 選抜総選挙~僕たちは誰について行けばいい?~?)[66]
  • 2017: AKB48 49th Single Senbatsu Sousenkyo 〜Mazu wa Tatakaou! Hanashi wa Sorekara da〜 (49thシングル 選抜総選挙~まずは戦おう!話はそれからだ~)[67]
  • 2018: AKB48 53rd Single Sekai Senbatsu Sousenkyo 〜Sekai no Center wa Dare da?〜 (AKB48 53rdシングル 世界選抜総選挙 〜世界のセンターは誰だ?〜)[68]

Janken Taikai[sửa | sửa mã nguồn]

  • 2015: AKB48 2015 Janken Taikai (AKB48グループ ソロシングル争奪じゃんけん大会in横浜アリーナ〜 こんなところで、運なんか使っちゃうのかと思うかもしれないが、とりあえず、勝たなきゃしょうがないだろ?〜)[69]

Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Năm # Tên Vị trí Tiêu thụ

(Oricon)

Tiêu thụ theo

Billboard Japan

Chứng nhận
Oricon[70] Hot 100 Tuần đầu Tổng
2017 1 "Seishun Dokei" (青春時計?) 1 1 160,271 208,247 277,180
2 "Sekai wa Doko Made Aozora na no ka?" (世界はどこまで青空なのか??) 2 2 148,442 201,800 266,946
2018 3 "Haru wa Doko kara Kuru no ka?" (春はどこから来るのか??) 1 1 109,012 165,917 189,405
4 "Sekai no Hito e" (世界の人へ?) 2 2 143,303 175.607 207,269
2020 5 "Sherbet Pink" (シャーベットピンク?) 2 5 80,011 132,985 104,643
2021 6 "Awesome" 3 76,530 84,822
7 Ponkotsu na Kimi ga Suki da

Các bài hát khác[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Tên Album
2016 "Max Toki 315gō" (Maxとき315号?) "Kimi wa Melody"
"Kimi wa Doko ni Iru?" (君はどこにいる??) "Tsubasa wa Iranai"
2017 "Midori to Mori no Undokōen" (みどりと森の運動公園?) "Shoot Sign"
2018 "Tomodachi de Imashō" (友達でいましょう?) "Jabaja"

Danh sách phim & chương trình truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Chương trình truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

  • HKT48 vs NGT48 Sashikita Gassen (NTV and Hulu Japan, 12/1 - 29/3/2016)[72]
  • Higurashi When They Cry (SKY PerfecTV!, 20/5 - 24/6/2016)[73]
  • Higurashi When They Cry Kai (SKY PerfecTV!, tháng 11/2016 – nay)[74]
  • HKT48 vs. NGT48 Sashikita Gassen
  • Lotti x NGT48 no Idol tte nanda?[75]

Chương trình radio[sửa | sửa mã nguồn]

  • PORT DE NGT (Hủy)
  • NGT48 no Minna Kamitaiou!! Radio Akushukai!!
  • Rakuten Travel FM
  • NGT48のえっさこいさRADIO

Giải thưởng và thành tựu[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách giải thưởng và đề cử của NGT48
Năm Giải thưởng Hạng mục Đề cử Kết quả
2018 32nd Japan Gold Disc Award[76] New Artist Of The Year NGT48 Đoạt giải
Best 5 New Artists (Japanese) Đoạt giải

Nhóm lập 2 kỷ lục Guinness trong năm 2018

  • Thời gian nhanh nhất để tạo ra 100 cơm nắm: Kỷ lục của nhóm là 4 phút 39 giây.[77]
  • Có nhiều người tham gia bức tranh vẽ tay trong 1 giờ: Kỷ lục là 1231 người tại LoveLa2[78]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ 新潟にNGT48誕生 10・1新劇場オープン (bằng tiếng Nhật). oricon ME inc. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2016.
  2. ^ a b 新潟)「NGT48」劇場オープン 公演にファンら来場:朝日新聞デジタル (bằng tiếng Nhật). The Asahi Shimbun Company. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2016.
  3. ^ a b c NGT48、劇場オープン3ヶ月延期 来年1月10日に (bằng tiếng Nhật). oricon ME inc. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2016.
  4. ^ “新グループはNGT48、新潟に新劇場オープン” (bằng tiếng Nhật). Natalie. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2015.
  5. ^ “NGT48、初代26人が新潟で"船出" 1000人が沸く”. ORICON NEWS. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2021.
  6. ^ “NGT48が「ばかうけ」PR大使に、新味開発も” (bằng tiếng Nhật). ngày 9 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2016.
  7. ^ “「Red Velvet」、「GOT7」、「EXO」、「防弾少年団」、「B1A4」など、釜山でアジア・ソング・フェスティバル│韓国音楽K-POP│wowKora(ワウコリア)”. wowKorea(ワウコリア). 11 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2021.
  8. ^ “NGT48: McDonald's Japan Has a 48-Piece Chicken McNugget Meal”. Fortune. ngày 24 tháng 11 năm 2015.
  9. ^ “NGT48がチキンマックナゲットボックスを飾る – AKB48: 日刊スポーツ”. Nikkan Sports.
  10. ^ “マクドナルド史上最多48ピースのナゲット発売! NGT48と新潟県限定コラボ”. Navi News. ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  11. ^ “[マクドナルド]NGT48のカード付きナゲット48ピースが販売地域拡大 AKBグループと初コラボ”. Navi News. ngày 14 tháng 12 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2021.
  12. ^ “人口100万未満の新潟で軌道に乗れるか NGT48 :日本経済新聞”.
  13. ^ “【本格始動】NGT48、劇場初公演を詳細レポート かとみなの「側宙」が見られるのはNGT48劇場だけ!”. T-SITE NEWS. ngày 19 tháng 1 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2021.
  14. ^ “NGT48 Idols Star in Live-Action When They Cry – Higurashi Horror Show”. Anime News Network. ngày 10 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2016.
  15. ^ a b “NGT48、新曲の「君はどこにいる?」が出演ドラマ『ひぐらしのなく頃に』主題歌に決定”. Musicman-NET. ngày 13 tháng 4 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2021.
  16. ^ a b “NGT48、ドラマ『ひぐらしのなく頃に』主題歌に”. Barks Music News. ngày 14 tháng 3 năm 2016.
  17. ^ “NGT48の新曲、ドラマ版『ひぐらしのなく頃に』主題歌に”. Oricon. ngày 13 tháng 4 năm 2016.
  18. ^ “ドラマ「ひぐらしのなく頃に」主題歌にNGT48の新曲「君はどこにいる?」 5月20日より放送開始”. Anime! Anime!. ngày 13 tháng 4 năm 2016.
  19. ^ “実写版ドラマ「ひぐらしのなく頃に」新キービジュアル公開。主題歌はAKB48新シングル収録曲NGT48「君はどこにいる?」”. E-TALENTBANK co.,ltd. ngày 13 tháng 4 năm 2016.
  20. ^ “NGT48「君はどこにいる?」がドラマ『ひぐらしのなく頃に』主題歌に決定 秋元康がドラマにあわせ書き下ろし”. Real Sound. ngày 13 tháng 4 năm 2016.
  21. ^ “Seishun Dokei”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2021.
  22. ^ “Sekai wa Doko Made Aozora na no ka? (世界はどこまで青空なのか?)”.
  23. ^ “「PRODUCE48」2度目の脱落者発表へ 山田野絵らが涙…順位激変か”. Model Press (bằng tiếng Nhật). ngày 3 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019.
  24. ^ “Haru wa Doko kara kuru no ka?”.
  25. ^ “Sekai no Hito e”.
  26. ^ “NGT48、冠レギュラー"消滅"…新潟のFM番組「PORT DE-」最終回”. Sankei Sports (bằng tiếng Nhật). ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2019.
  27. ^ Pineda, Rafael Antonio (ngày 11 tháng 4 năm 2019). “NGT48 Idol Group Dissolves Current Teams, 'Restarts' With New Members”. Anime News Network. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2019.
  28. ^ “NGT48、チーム制度取りやめを発表「1期生と研究生として再スタート」”. Oricon (bằng tiếng Nhật). ngày 11 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2019.[liên kết hỏng]
  29. ^ Trang, Hà (12 tháng 4 năm 2019). “Nhóm nhạc thần tượng NGT48 cải tổ hoàn toàn đội hình để có thể "khởi động lại" sau scandal”. Sugoi | Trang tin tức Nhật Việt. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2021.
  30. ^ “AKB48柏木由紀、NGT48兼任解除へ”. Oricon (bằng tiếng Nhật). ngày 17 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2019.
  31. ^ “NGT48山口真帆、卒業発表「このグループに変わってほしかった」【コメント全文】”. Oricon (bằng tiếng Nhật). ngày 21 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2019.
  32. ^ “NGT48の山口真帆、長谷川玲奈、菅原りこが卒業発表”. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 21 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2019.
  33. ^ Komatsu, Ryujiro (ngày 22 tháng 4 năm 2019). “Member leaving idol group, upset about handling of assault case”. Asahi Shimbun. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2019.
  34. ^ “NGTメンバー、山口真帆を批判? 真偽不明の「インスタスクショ」が拡散”. J-Cast (bằng tiếng Nhật). ngày 20 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2019.
  35. ^ a b “NGT48加藤美南が不適切投稿で研究生に降格処分、NGTメンバーSNSの運用停止が決定”. Natalie (bằng tiếng Nhật). ngày 21 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2019.
  36. ^ Morrissy, Kim (ngày 22 tháng 5 năm 2019). “NGT48 Idol Minami Katō Demoted After 'Inappropriate' Instagram Post About Maho Yamaguchi”. Anime News Network. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2019.
  37. ^ “NGT運営「SNSの指導を徹底」 メンバーの運用は一旦停止へ”. Oricon (bằng tiếng Nhật). ngày 21 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2019.
  38. ^ “NGT48 Mobile”. NGT48 Mobile. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2019.
  39. ^ “NGT48 to resume theater performances”. Neotokyo 2099. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2019.
  40. ^ “NGT48's Sato Anju announced that she is graduating”. Neotokyo 2099. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2019.
  41. ^ “Takakura Moeka graduation”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2020.
  42. ^ “AKS、NGT運営を新設会社Floraに事業譲渡 - AKB48: 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2021.
  43. ^ “Sherbet Pink”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2021.
  44. ^ “NGT48劇場 有観客公演再開のお知らせ”. NGT48 Official Site (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2021.
  45. ^ “Awesome”. AKB48 Wiki (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2021.
  46. ^ “NGT2年ぶり冠ラジオ!奈良未遥、藤崎未夢、小越春花が聞きどころ紹介 - AKB48: 日刊スポーツ”. nikkansports.com (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2021.
  47. ^ “Ogino Yuka To Hold Graduation Concert in October - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2021.
  48. ^ “NGT48 Announce 7th Single Lineup - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2021.
  49. ^ “NGT48 Reveal 7th Single's Details - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2021.
  50. ^ “NGT48 Yamada Noe Announces Retirement - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2021.
  51. ^ “NGT48 Recruit 3rd Generation - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2022.
  52. ^ “「NGT48」メンバーの自宅に男2人が押しかけトラブル 新潟”. NHK (bằng tiếng Nhật). ngày 9 tháng 1 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2019.
  53. ^ Jozuka, Eriko; Yakatsuki, Yoko (ngày 16 tháng 1 năm 2019). “Why a pop idol's stand against her assault sparked outrage in Japan”. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2019.
  54. ^ VTV, BAO DIEN TU (13 tháng 1 năm 2019). “Ngược đời ngôi sao nhạc pop Nhật Bản xin lỗi vì... tố cáo kẻ tấn công”. BAO DIEN TU VTV. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2021.
  55. ^ “Victim-blaming outcry as Japan pop star says sorry after alleged assault by fans”. the Guardian (bằng tiếng Anh). 18 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2021.
  56. ^ “Assaulted NGT48 idol's apology sparks calls for justice”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). 11 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2019.
  57. ^ Jozuka, Eriko; Yakatsuki, Yoko (16 tháng 1 năm 2019). “Why a pop idol's stand against her assault sparked outrage in Japan”. CNN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2019.
  58. ^ Japan, Arama! (9 tháng 1 năm 2019). “NGT48 member Maho Yamaguchi assaulted, rumored to be orchestrated by other NGT members”. ARAMA! JAPAN (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2021.
  59. ^ “NGT48公式サイトで山口真帆の写真は更新されず”. Sports Nippon (bằng tiếng Nhật). ngày 1 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2019.
  60. ^ Morrissy, Kim (ngày 26 tháng 9 năm 2019). “Former NGT48 Idol Maho Yamaguchi's Talent Agency Takes Alleged Assailants to Court for Damages”. Anime News Network. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2019.
  61. ^ “元NGT48・山口真帆への暴行裁判が和解決着「被告側が上手だった」との分析も”. Tokyo Sports (bằng tiếng Nhật). ngày 9 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2020.
  62. ^ “Kado Yuria announces graduation from NGT48”. Bunshun English (bằng tiếng Indonesia). Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  63. ^ “NGT48 Kusakabe Aina Announces Retirement - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2022.
  64. ^ “NGT48 Kenkyuusei Mizusawa Ayaka announces graduation”. tokyohive. 6Theory Media, LLC. ngày 1 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2021.
  65. ^ “AKB48 41st Single Senbatsu Sousenkyo”.
  66. ^ “AKB48 45th Single Senbatsu Sousenkyo "Bokutachi wa Dare ni Tsuiteikeba ii".
  67. ^ “AKB48 49th Single Senbatsu Sousenkyo”.
  68. ^ “AKB48 53rd Single Sekai Senbatsu Sousenkyo”.
  69. ^ “AKB48グループじゃんけん大会2015”. AKB48公式サイト (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
  70. ^ “STU48のシングル売上ランキング”. Oricon. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2018.
  71. ^ a b c d e “Certifications Search Results: NGT48 (Physical Format)” (Enter "NGT48" into the "アーティスト" (Artist) field) (bằng tiếng Nhật). Recording Industry Association of Japan. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2020.
  72. ^ HKT48&NGT48合同冠番組『さしきた合戦』連動「食少女」配信 (bằng tiếng Nhật). oricon ME inc. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2016.
  73. ^ TV ひぐらしのなく頃に. allcinema (bằng tiếng Nhật). Stingray. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2016.
  74. ^ ドラマ『ひぐらしのなく頃に』続編、11月放送開始 (bằng tiếng Nhật). oricon ME inc. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2016.
  75. ^ “NGT48 Get A New TV Show - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2022.
  76. ^ “The Winners of The Japan Gold Disc Award 2018 Announced”.
  77. ^ “NGT48 break another Guinness World Record - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.
  78. ^ “NGT48 break Guinness World Record - 48/46 J-POP & Showbiz News”. jshowbiz.com. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2021.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]