Nguyễn Duy (nhà thơ)
| Nguyễn Duy | |
|---|---|
| Thông tin cá nhân | |
| Sinh | |
Tên khai sinh | Nguyễn Duy Nhuệ |
Ngày sinh | 7 tháng 12, 1948 |
Nơi sinh | Thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa |
| Giới tính | nam |
| Quốc tịch | |
| Đảng chính trị | |
| Nghề nghiệp | nhà thơ |
| Lĩnh vực | văn học |
| Sự nghiệp văn học | |
| Thể loại | thơ, tiểu thuyết, ký |
| Tác phẩm |
|
| Giải thưởng | Danh sách |
| Binh nghiệp | |
| Thuộc | |
| Năm tại ngũ | 1966-1976 |
| Đơn vị | Chiến trường Khe Sanh, Nam Lào, Nam Bộ |
| Giải thưởng | |
| Giải thưởng Nhà nước 2007 Văn học Nghệ thuật | |
| Website | |
| http://www.thica.net/category/tat-ca/nguyen-duy/ | |
Nguyễn Duy (tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ; sinh năm 1948) là một nhà thơ Việt Nam, được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật vào năm 2007.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Nguyễn Duy (tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ) sinh ngày 07 tháng 12 năm 1948, tại xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hóa), tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1965, Nguyễn Duy từng làm tiểu đội trưởng tiểu đội dân quân trực chiến tại khu vực cầu Hàm Rồng – Thanh Hóa, một trọng điểm đánh phá ác liệt của không quân Mỹ trong những năm chiến tranh Việt Nam. Năm 1966 ông nhập ngũ, trở thành lính đường dây của bộ đội thông tin. Ông từng tham gia chiến đấu nhiều năm trên các chiến trường đường 9 – Khe Sanh, Đường 9 – Nam Lào, Nam Lào, chiến trường miền Nam. Trong giai đoạn này, ông đã trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Năm 1976, giải ngũ, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977, ông là đại diện thường trú của tuần báo Văn nghệ tại các tỉnh phía Nam.[1]
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1973.
Sự nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Nguyễn Duy làm thơ rất sớm, khi đang còn là học sinh trường cấp 3 Lam Sơn, Thanh Hóa. Năm 1973, ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo Văn nghệ với chùm thơ: Hơi ấm ổ rơm, Bầu trời vuông, "Giọt nước mắt và nụ cười", Tre Việt Nam trong tập Cát trắng. Ngoài thơ, ông cũng viết tiểu thuyết, bút ký. Ông đã in 13 tập thơ, 3 tập bút ký, 1 tiểu thuyết:
Năm 1997 ông tuyên bố "gác bút" để chiêm nghiệm lại bản thân rồi tập trung vào làm lịch thơ, in thơ lên các chất liệu tranh, tre, nứa, lá, thậm chí bao tải. Từ năm 2001, ông in nhiều thơ trên giấy dó. Ông đã biên tập và năm 2005 cho ra mắt tập thơ thiền in trên giấy dó (gồm 30 bài thơ thiền thời Lý, Trần do ông chọn lọc) khổ 81 cm x 111 cm có nguyên bản tiếng Hán, phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Việt, dịch nghĩa và dịch thơ tiếng Anh với ảnh nền và ảnh minh họa của ông.
Năm 1997, ông giành giải Mai Vàng cho tuyển tập thơ Bụi.[2]
Ông được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007 với các tập thơ: Cát trắng, Ánh trăng, Mẹ và em.[3]
Tác phẩm chính
[sửa | sửa mã nguồn]Thơ
[sửa | sửa mã nguồn]- Cát trắng (1973), 50 bài thơ
- Ánh trăng (thơ, 1984);
- Đãi cát tìm vàng (1987), 38 bài thơ
- Mẹ và em (1987)
- Đường xa (1989), 19 bài thơ
- Quà tặng (1990)
- Về (1994), 49 bài thơ
- Sáu và Tám (tuyển thơ lục bát, 1994)
- Tình tang (1995)
- Vợ ơi (tuyển thơ tặng vợ, 1995)
- Bụi (1997), 49 bài thơ
- Thơ Nguyễn Duy (2010, tuyển tập những bài thơ tiêu biểu nhất của ông)
- Quê nhà ở phía ngôi sao (2017)
- Tuyển thơ lục bát (2017)
- Em – Sóng (kịch thơ, (1983)
Tiểu thuyết
[sửa | sửa mã nguồn]- Khoảng cách (tiểu thuyết, 1985)
Bút ký
[sửa | sửa mã nguồn]- Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký, 1986)
- Tôi thích làm vua (ký, 1988)
- Ghi và Nhớ (ký, 2017)
Nguồn:[4]
Nhận định
[sửa | sửa mã nguồn]Thơ Nguyễn Duy nhiều bài có cái ngang tàng nhưng vẫn trầm tĩnh và giàu chiêm nghiệm vì thế cứ ngấm vào người đọc. Trong cái đà ngấm ấy có lúc khiến người ta phải giật mình suy nghĩ, nhiều bài thơ của ông được bạn đọc yêu thích: Tre Việt Nam, Ánh trăng, Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, Đò Lèn, Sông Thao,.... Ông được đánh giá cao trong thể thơ lục bát, một thể thơ có cảm giác dễ viết nhưng viết được hay thì lại rất khó. Thơ lục bát của Nguyễn Duy được viết theo phong cách hiện đại, câu thơ vừa phóng túng lại vừa uyển chuyển chặt chẽ. Nguyễn Duy được giới phê bình đánh giá là người đã góp phần làm mới thể thơ truyền thống này. Bài thơ Tre Việt nam của ông đã được đưa vào sách giáo khoa phổ thông của Việt Nam.[5]
| “ | Hình hài Nguyễn Duy giống như đám đất hoang, còn thơ Nguyễn Duy là thứ cây quý mọc trên đám đất hoang ấy. | ” |
| — nhạc sĩ Trịnh Công Sơn [6] | ||
Vinh danh
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007
Giải thưởng văn học
[sửa | sửa mã nguồn]- Giải nhất thơ tuần báo Văn nghệ năm 1973,
- Tặng thưởng loại A về thơ của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985.
- Giải Mai Vàng năm 1997 cho tuyển tập thơ Bụi
Chú thích
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ "Nhà thơ Nguyễn Duy". Bảo tàng Văn học Việt Nam. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2025.
- ^ "Danh sách nghệ sĩ từng đoạt Giải Mai Vàng 19 năm qua". Người Lao Động. ngày 3 tháng 3 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2018.
- ^ "Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật". cand.com.vn. ngày 8 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2024.
- ^ "Nhà thơ Nguyễn Duy". Bảo tàng Văn học Việt Nam. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2025.
- ^ Phạm Khải (ngày 3 tháng 7 năm 2012). "Thơ Nguyễn Duy: Suối nguồn tươi mát". Công an nhân dân. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2025.
- ^ Huỳnh Anh Phương (ngày 22 tháng 3 năm 2011). "Nhạc sĩ họ Trịnh vẽ chân dung bạn văn". Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2025.