Ostracion meleagris

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ostracion meleagris
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Tetraodontiformes
Họ (familia)Ostraciidae
Chi (genus)Ostracion
Loài (species)O. meleagris
Danh pháp hai phần
Ostracion meleagris
G. Shaw, 1796
Danh pháp đồng nghĩa
  • Ostracion lentiginosus Bloch & Schneider, 1801
  • Ostracion punctatus Bloch & Schneider, 1801
  • Ostracion sebae Bleeker, 1851
  • Ostracion camurum Jenkins, 1901
  • Ostracion clippertonense Snodgrass & Heller, 1905

Ostracion meleagris, có tài liệu tiếng Việt gọi là cá nóc hòm chấm trắng,[1] là một loài cá biển thuộc chi Ostracion trong họ Cá nóc hòm. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1796.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh meleagris theo tiếng Latinh nghĩa là "gà Phi", hàm ý đề cập đến những đốm trắng trên cơ thể màu nâu đen của loài này giống như hoa văn trên thân của giống gà Phi.[2]

Phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

O. meleagris có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo HawaiiTuamotu, ngược lên phía bắc đến Nam Nhật Bản (gồm cả quần đảo Ogasawara), xa về phía nam đến rạn san hô Great Barrier, Nouvelle-Calédonie và đảo Rapa Iti; còn ở Đông Thái Bình Dương, O. meleagris được ghi nhận từ mũi nam bán đảo Baja California, trải dài xuống phía nam đến Panama, bao gồm đảo Clippertonquần đảo Galápagos xa bờ.[3] O. meleagris cũng có mặt tại vùng biển Việt Nam,[4][5][6] bao gồm cả quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[7]

O. meleagris sống trên các rạn viền bờ và trong đầm phá ở độ sâu đến ít nhất 30 m; cá con thường ẩn mình giữa các mỏm đá có nhiều cầu gai.[8]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở O. meleagris là 25 cm.[8] Chúng là loài dị hình giới tính. Cá cái và cá con có màu nâu sẫm, hơi đen hoặc phớt xanh lục, có đốm trắng trên đầu và thân. Cá đực lớn có màu nâu đen ở lưng với các vệt đốm cam ở bên thân, thân và đầu xanh lam sẫm; sọc cam bao quanh rìa tấm giáp lưng.

Số tia vây ở vây lưng: 8–9; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 10–11; Số tia vây ở vây đuôi: 10.[1]

Sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của O. meleagris bao gồm tảo và những loài thủy sinh không xương sống như động vật thân mềm, hải miên, hải tiêu, giun nhiều tơ, động vật giáp xác.[8] Một nghiên cứu chỉ ra rằng, O. meleagris, cũng như nhiều loài cá nóc hòm khác phụ thuộc rất nhiều vào các loài hải tiêu (hải tiêu chứa nhiều chất độc khác nhau và ít khi bị các loài cá rạn san hô ăn thịt, ngoại trừ cá nóc hòm).[9]

O. meleagris có khả năng tạo âm thanh trong quá trình thực hiện màn tán tỉnh, hoặc khi hai con đực đang chiến đấu với nhau.[10]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Trần Thị Hồng Hoa (2015). “Họ Cá nóc hòm Ostraciidae ở Việt Nam” (PDF). Hội nghị Khoa học toàn quốc về sinh thái và tài nguyên sinh vật lần thứ 6: 149–375. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 27 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  2. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Tetraodontiformes”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Ostracion meleagris. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2023.
  4. ^ Nguyễn Văn Long (2016). “Hiện trạng và biến động quần xã cá rạn san hô ở khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tuyển tập Nghiên Cứu Biển. 22: 111–125.
  5. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  6. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng; Hoàng Xuân Bền (2021). “Hiện trạng và biến động quần xã cá rạn san hô ở Khu Bảo tồn biển Hòn Cau, tỉnh Bình Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 21 (4A): 153–172. ISSN 1859-3097.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2004). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  8. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Ostracion meleagris trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.
  9. ^ Koide, Yuki; Sakai, Yoichi (2021). “Feeding habits of the white-spotted boxfish Ostracion meleagris reveal a strong preference for colonial ascidians”. Ichthyological Research. 68 (4): 461–470. doi:10.1007/s10228-021-00800-x. ISSN 1616-3915.
  10. ^ Lobel, P. S. (1996). “Spawning Sound of the Trunkfish, Ostracion meleagris (Ostraciidae)” (PDF). The Biological Bulletin. 191 (2): 308–309. doi:10.1086/BBLv191n2p308. ISSN 0006-3185.