Cá miền xăng tô

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Paracaesio xanthura)

Cá miền xăng tô
Phân loại khoa học edit
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Actinopterygii
Bộ: Perciformes
Họ: Lutjanidae
Chi: Paracaesio
Loài:
P. xanthura
Danh pháp hai phần
Paracaesio xanthura
(Bleeker, 1869)
Các đồng nghĩa[2][3]
  • Caesio xanthurus Bleeker, 1869
  • Apsilus xanthurus (Bleeker, 1869)
  • Paracaesio pedleyi McCulloch & Waite, 1916
  • Vegetichthys tumidus Tanaka, 1917
  • Aetiasis cantharoides Barnard, 1937

Cá miền xăng tô[4][5][6] (tên khoa học: Paracaesio xanthurus[7]) là một loài cá biển thuộc chi Paracaesio trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1869.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh xanthurus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: xanthós (ξανθός; "có màu vàng") và ourā́ (οὐρά; "đuôi"), hàm ý đề cập đến vây và cuống đuôi có màu vàng tươi ở loài cá này.[8]

Tình trạng phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Theo Allen và Anderson (2001), cá miền xăng tô là một nhóm phức hợp loài có thể bao gồm hai (hoặc nhiều) loài khác. P. pedleyi, hiện là đồng nghĩa của P. xanthurus, được mô tả từ đảo Lord Howe, rạn san hô Middleton và vùng bờ đông Úc cũng có thể nằm trong số này (nếu được công nhận là hợp lệ).[9]

Phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Đông Phi, cá miền xăng tô được phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Australes, ngược lên phía bắc tới biển Nhật Bảnquần đảo Marshall, xa về phía nam đến quần đảo Kermadec.[10] Cá miền xăng tô cũng được ghi nhận tại vùng biển Việt Nam,[11] bao gồm cả quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[12]

Cá miền xăng tô sống trên các rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu khoảng từ 5 đến 250 m.[13]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá miền xăng tô là 50 cm.[13] Cá có màu xanh lam nhạt, dải vàng ở thân trên bắt đầu từ gần đầu vây lưng kéo dài băng qua cuống đuôi và ra cả hai thùy đuôi. Vây lưng màu xám đến hơi vàng, các vây khác màu xám hoặc trắng nhạt.

Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 16–18; Số vảy đường bên: 68–72.[9]

Sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của cá miền xăng tô là động vật phù du.[13]

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Cá miền xăng tô là một loại cá thực phẩm quan trọng ở nhiều khu vực và thường được bán ở dạng tươi sống hoặc đông lạnh.[9]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Russell, B.; Lawrence, A.; Myers, R.; Carpenter, K.E.; Smith-Vaniz, W.F. (2016). Paracaesio xanthura. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T194349A2318370. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T194349A2318370.en. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
  2. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Paracaesio xanthura trên FishBase. Phiên bản tháng February năm 2021.
  3. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan (biên tập). “Chi Paracaesio. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2021.
  4. ^ Vũ Trung Tạng; Nguyễn Thành Nam (2008). “Nghiên cứu thành phần loài cá san hô vịnh Phan Thiết - tỉnh Bình Thuận” (PDF). Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. 7: 76–83.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  5. ^ Tống Xuân Tám; Nguyễn Thị Kiều; Đỗ Khánh Vân (2016). “Thành phần loài cá biển thu ở cảng cá tại thành phố Phan Thiết - tỉnh Bình Thuận”. Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM. 9 (87): 93–112.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ Lê Thị Thu Thảo; Võ Văn Quang; Nguyễn Phi Uy Vũ (2018). “Thành phần loài khu hệ cá vùng biển ven bờ tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 18 (2): 166–177. doi:10.15625/1859-3097/18/2/8562.
  7. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Caesio xanthurus. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2023.
  8. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Lutjaniformes: Families Haemulidae and Lutjanidae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2023.
  9. ^ a b c W. D. Anderson & G. R. Allen (2001). “Lutjanidae” (PDF). Trong Kent E. Carpenter & Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Volume 5. Roma: FAO. tr. 2904. ISBN 92-5-104587-9.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  10. ^ Russell, B.; Lawrence, A.; Myers, R.; Carpenter, K. E. & Smith-Vaniz, W. F. Paracaesio xanthura. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T194349A2318370. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-3.RLTS.T194349A2318370.en. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2023.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  11. ^ Lê Thị Thu Thảo (2011). “Danh sách các loài thuộc họ cá Hồng Lutjanidae ở vùng biển Việt Nam” (PDF). Hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ 4: 362–368. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2023.
  12. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2004). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  13. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Paracaesio xanthura trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2023.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]