Park Ji-sung
![]() Park tại Hội nghị G20 Seoul năm 2010 | ||||||||||||||||||||||||
Thông tin cá nhân | ||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Park Ji-sung[1] | |||||||||||||||||||||||
Chiều cao | 1,75 m[2] | |||||||||||||||||||||||
Vị trí | Tiền vệ | |||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | ||||||||||||||||||||||||
1999–2000 | Đại học Myongji | |||||||||||||||||||||||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | ||||||||||||||||||||||||
Năm | Đội | ST | (BT) | |||||||||||||||||||||
2000–2002 | Kyoto Purple Sanga | 76 | (11) | |||||||||||||||||||||
2002–2005 | PSV Eindhoven | 65 | (13) | |||||||||||||||||||||
2005–2012 | Manchester United | 134 | (19) | |||||||||||||||||||||
2012–2014 | Queens Park Rangers | 20 | (0) | |||||||||||||||||||||
2013–2014 | → PSV Eindhoven (cho mượn) | 5 | (2) | |||||||||||||||||||||
Tổng cộng | 318 | (45) | ||||||||||||||||||||||
Đội tuyển quốc gia | ||||||||||||||||||||||||
1999–2004 | U-23 Hàn Quốc | 23 | (3) | |||||||||||||||||||||
2000–2011 | Hàn Quốc | 100 | (13) | |||||||||||||||||||||
Thành tích
| ||||||||||||||||||||||||
* Số trận và số bàn thắng của câu lạc bộ chuyên nghiệp chỉ được tính cho giải bóng đá vô địch quốc gia |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | |
---|---|
Hanja | |
Romaja quốc ngữ | Bak Jiseong |
McCune–Reischauer | Pak Chisŏng |
Hán-Việt | Phác Trí Tinh |
Park Ji-sung (Chosŏn'gŭl: 박지성, Hanja: 朴智星), sinh ngày 25 tháng 2 năm 1981 tại Suwon, Gyeonggi-do là cựu cầu thủ bóng đá người Hàn Quốc.
Trong khi những cầu thủ châu Á thường không có vị trí tốt tại câu lạc bộ lớn tại châu Âu nhưng với Park thì ngược lại, anh rất nhiều lần được Sir Alex Ferguson trọng dụng trong những trận cầu lớn của Manchester United vì thế nhiều người coi anh là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất của bóng đá châu Á từng chơi tại châu Âu.
Park rất nổi tiếng ở Hàn Quốc cũng như với các cổ động viên của PSV Eindhoven vì là trụ cột trong việc đưa Hàn Quốc tới chức vô địch World Cup 2002 và giúp PSV vào bán kết UEFA Champions League, cũng như là cầu thủ Hàn Quốc đầu tiên chơi bóng ở Premier League.
Một cầu thủ nổi tiếng với những bước chạy và thể lực, những đồng đội cũ của anh ở PSV từng đùa rằng Park đeo bình oxy sau lưng khi chơi bóng. Cũng với lý do tương tự, các cổ động viên United đã gọi anh là "Three-Lung Park" có nghĩa là "Park ba phổi". Tên gọi này đã thể hiện tốc độ và sức mạnh của anh, điều đã giúp anh có những pha bứt phá tốc độ và thể lực dồi dào cho 90 phút thi đấu.
Với các huấn luyện viên của mình, Park được biết đến với thái độ nghiêm túc và một tinh thần làm việc chăm chỉ, chuyên nghiệp, những điều đã giúp anh thành công ở cả hai CLB cũng như đội tuyển quốc gia. Anh luôn vào trận với một quyết tâm rất lớn và chơi rất xông xáo, cần mẫn. Park đã được mô tả là một "phù thủy" với trái bóng ở chân, người có thể thiêu cháy các hậu vệ bằng những pha bứt phá tốc độ. Park có nhãn quan chiến thuật tốt và anh thường xuyên đóng góp các đường chuyền chính xác cho các đồng đội của mình. Anh chơi bóng rất đồng đội, luôn đặt đội bóng lên trước bản thân mình.
Park đã giành chức vô địch Premier League cùng Manchester United, đội bóng và cũng đã giành UEFA Champions League và FIFA Club World Cup. Park có thể chơi ở bất cứ đâu trên hàng tiền vệ và được đánh giá cao lối chơi cống hiến hết mình của mình.
Là một thành viên của đội tuyển quốc gia Hàn Quốc, Park có 100 trận ra sân và ghi được 13 bàn thắng, góp phần giúp đội tuyển Hàn Quốc kết thúc vị trí thứ tư tại Giải bóng đá vô địch thế giới 2002. Anh chia tay sự nghiệp của mình ở Queens Park Rangers ở tuổi 33.
Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Khởi đầu sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Mặc dù được sinh ra tại thủ đô của Hàn Quốc, Seoul, lớn lên tại công viên Suwon, một thành phố vệ tinh 30 km (20 dặm) về phía nam của Seoul. Trong khi ở trường trung học, Park đã bị từ chối bởi một số các câu lạc bộ chuyên nghiệp, do dáng vóc nhỏ bé của mình. Anh đã chơi cho trường Đại học Myongji. Năm 2000, chỉ sau một năm tại Đại học Myongji, câu lạc bộ Kyoto Purple Sanga của Nhật đã ký hợp đồng với Park.
Kyoto Purple Sanga[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 2002, Park dẫn đội vào trận chung kết Cúp bóng đá và ghi 1 bàn gỡ hòa. Câu lạc bộ còn tiếp tục lọt vào trận chung kết và giành chiến thắng 2-1, giúp đội đoạt chiếc cúp bóng đá đầu tiên trong lịch sử.
PSV Eindhoven[sửa | sửa mã nguồn]
HLV trưởng đội tuyển Hàn Quốc - Guus Hiddink - quay trở lại Hà Lan dẫn dắt CLB PSV Eindhoven vào tháng 8 năm 2003. Khi dẫn dắt đội tuyển Hàn Quốc, Hiddink đã rất ấn tượng với màn trình diễn của tiền vệ trẻ này, vậy nên sau khi quay lại Hà Lan ông đã mang theo Park Ji-Sung về với sân Phillips.
Tuy nhiên, mùa giải đầu tiên tại Hà Lan đã rất khó khăn với tiền vệ người Hàn Quốc, Anh đã gặp phải các vấn đề về văn hóa trong cuộc sống của người Hà Lan và cả về ngôn ngữ bản địa, Park đã không để lại nhiều dấu ấn nổi bật trong mùa giải đầu tiên khi chỉ được ra sân 8 lần trong cả mùa bóng, dù sao thì PSV cũng đã không thể giành được chức vô địch Hà Lan.
Mặc dù gặp khó khăn ở mùa giải đầu tiên, tuy nhiên sang các mùa giải tiếp theo chứng kiến sự bùng nổ bất ngờ của tiền vệ người Hàn Quốc và anh đã trở thành một quân bài chiến lược trong đội hình của đội bóng chủ sân Phillips. PSV đã được dự đoán là sẽ có một mùa giải tranh đấu rất khó khăn do sự ra đi của 2 cầu thủ chủ chốt: Ajen Robben và Mateja Kezman (đều đến Chelsea). Tuy nhiên, sự nổi lên của tiền vệ thi đấu không biết mệt mỏi Park Ji-Sung đã đóng góp đáng kể giúp PSV giành chức vô địch quốc gia Hà Lan và lập một cú đúp. Anh còn ghi 1 bàn thắng vào lưới AC Milan trong bán kết lượt đi trong khuôn khổ Champions League. Có tiêu đề "Bài hát cho Park", nó đã được bao gồm trong album chính thức của PSV "PSV Kampioen", và lặp đi lặp lại "Ji-Sung Park" trong cách phát âm tiếng Hà Lan toàn bộ thời gian
Manchester United[sửa | sửa mã nguồn]
Mùa giải 2004-2005, Park ký một hợp đồng 4 năm và mức lương hàng năm của tiền vệ này tại CLB M.U là khoảng 3,6 triệu USD/1 năm. Thời gian "Ji" ở United không chỉ toàn một màu hồng. Park đã nhiều lần phải nghỉ thi đấu vì những chấn thương dai dẳng, thậm chí có gian đoạn anh đã không thể thi đấu tới nửa già của mùa giải. Nhưng một khi Park Ji-Sung lành lặn, anh luôn là một trong những quân bài chiến thuật quan trọng nhất của ngài Alex. Một điểm đáng khen chính là tinh thần chuyên nghiệp trong thi đấu, bất kể cho dù phải thi đấu dưới bất kỳ vị trí nào hay thậm chí là chỉ ngồi trên ghế dự bị và vào sân ở phút 90 nhằm... câu giờ. Park là cầu thủ xuất sắc nhất của Hàn Quốc đang thi đấu ở nước ngoài và anh cũng là một trụ cột không thể thiếu của "Quỷ đỏ" vào thời điểm đó. Dù có rất nhiều cầu thủ châu Á đang thi đấu trên khắp châu Âu, nhưng chưa có ai đạt được những thành công như Park đã làm được với M.U. Lối chơi lăn xả cùng khả năng tìm kiếm khoảng trống rất tốt của Park đã gây được ấn tượng với Sir Alex. Tiền vệ người Hàn Quốc đã nhanh chóng trở thành một trụ cột của M.U trong chiến tích 3 lần liên tiếp vô địch Premier League. Park chính là cầu thủ châu Á đầu tiên có vinh dự khoác áo M.U sau khi gia nhập đội bóng này năm 2005 từ PSV Eindhoven. Nhưng vinh dự lớn nhất đối với Park là trở thành cầu thủ châu Á đầu tiên được tham dự một trận chung kết Champions League. Dù M.U đã để thua toàn diện trước Barca trong trận chung kết tại Rome, nhưng đó là thực sự là một giấc mơ với tiền vệ người Hàn Quốc, bởi anh đã vắng mặt một cách đáng tiếc trong trận chung kết mùa giải trước với Chelsea.
Mùa giải 2009/2010, Park tỏ ra đặc biệt lợi hại ở vị trí tiền vệ cánh có xu hướng bó vào trong đá như một tiền vệ công. Bằng nguồn thể lực sung mãn, Park nuốt trọn cả hai nhiệm vụ: là lớp phòng ngự đầu tiên của M.U trong một đội hình thiên về phòng ngự (4-5-1), lại vừa là người đầu tiên phối hợp với tiền đạo duy nhất và cũng không quên nhiệm vụ hỗ trợ cũng như tấn công của một tiền vệ cánh. Cũng phải nói rằng, nếu không có nguồn thể lực cực kỳ tốt thì Ji không thể hoàn thành từng đó nhiệm vụ lại thêm một điểm chịu khó đeo bám trong lối chơi, Park thực sự là một quân bài cực kỳ hữu hiệu trong việc "chuyền 2" và là một trong hai cầu thủ có thể phá lối chơi của đối phương (người kia là Fletcher) cực tốt.
Mùa giải 2010-2011, đầu mùa giải, Park ít có mặt trong đội hình ra quân của M.U anh thường xuyên phải ngồi dự bị và chỉ được vào sân từ phút 85 đố xuống. Tuy nhiên, Park vẫn là vũ khí bí mật của M.U, trận thắng Wolverhampton (vòng 11 ngoại hạng Anh), kỉ niệm 24 năm ngày Sir Alex dẫn dắt M.U, Park đã dành tặng cho người thầy món quà bất ngờ. Hai bàn thắng của anh đã giúp quỷ đỏ hạ gục Wolves. Trong đó, bàn thắng thứ hai của Park được ghi ở phút thứ 93, lúc mà M.U tưởng như đã hết hi vọng kiếm 3 điểm. Sau trận đấu này, Park được vào sân thường xuyên hơn, anh tiếp tục ghi bàn trong trận đại thắng 7-1 trước Blackburn (vòng 15 ngoại hạng Anh). Cầu thủ người Hàn Quốc cũng là người ghi bàn duy nhất giúp M.U đánh bại Arsenal 1-0 (vòng 17 ngoại hạng Anh).
Thống kê sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Châu lục | Khác | Tổng cộng | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Kyoto Purple Sanga | 2000 | 13 | 1 | 1 | 0 | 2 | 0 | — | — | 16 | 1 | ||
2001 | 38 | 3 | 1 | 0 | 1 | 0 | — | — | 40 | 3 | |||
2002 | 25 | 7 | 4 | 1 | 0 | 0 | — | — | 29 | 8 | |||
Tổng cộng | 76 | 11 | 6 | 1 | 3 | 0 | — | — | 85 | 12 | |||
PSV Eindhoven | 2002–03 | 9 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | 8 | 0 | |
2003–04 | 28 | 6 | 1 | 0 | — | 10 | 0 | 1 | 0 | 40 | 6 | ||
2004–05 | 28 | 7 | 3 | 2 | — | 13 | 2 | 0 | 0 | 44 | 11 | ||
Total | 65 | 13 | 4 | 2 | — | 23 | 2 | 1 | 0 | 93 | 17 | ||
Manchester United | 2005–06 | 34 | 1 | 2 | 0 | 3 | 1 | 6 | 0 | — | 45 | 2 | |
2006–07 | 14 | 5 | 5 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | — | 20 | 5 | ||
2007–08 | 12 | 1 | 2 | 0 | 0 | 0 | 4 | 0 | 0 | 0 | 18 | 1 | |
2008–09 | 25 | 2 | 3 | 1 | 1 | 0 | 9 | 1 | 2 | 0 | 40 | 4 | |
2009–10 | 17 | 3 | 0 | 0 | 2 | 0 | 6 | 1 | 1 | 0 | 26 | 4 | |
2010–11 | 15 | 5 | 1 | 0 | 2 | 2 | 9 | 1 | 1 | 0 | 28 | 8 | |
2011–12 | 17 | 2 | 1 | 1 | 3 | 0 | 7 | 0 | 0 | 0 | 28 | 3 | |
Tổng cộng | 134 | 19 | 14 | 2 | 11 | 3 | 42 | 3 | 4 | 0 | 205 | 27 | |
Queens Park Rangers | 2012–13 | 20 | 0 | 3 | 0 | 2 | 0 | — | — | 25 | 0 | ||
Tổng cộng | 20 | 0 | 3 | 0 | 2 | 0 | — | — | 25 | 0 | |||
PSV Eindhoven (mượn) | 2013–14 | 23 | 2 | 0 | 0 | — | 4 | 0 | — | 27 | 2 | ||
Tổng cộng | 23 | 2 | 0 | 0 | — | 4 | 0 | — | 27 | 2 | |||
Tổng cộng sự nghiệp | 318 | 45 | 27 | 5 | 16 | 3 | 69 | 5 | 5 | 0 | 435 | 58 |
Tính đến ngày 3 tháng 5 năm 2014.
Quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]
Đội tuyển quốc gia | Năm | Giao hữu | Giải đấu chính thức | Tổng cộng | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | |||
U-23 Hàn Quốc | 1999 | 4 | 1 | 4 | 0 | 8 | 1 | |
2000 | 7 | 2 | 3 | 0 | 10 | 2 | ||
2002 | 0 | 0 | 3 | 0 | 3 | 0 | ||
2004 | 0 | 0 | 2 | 0 | 2 | 0 | ||
Tổng cộng | 11 | 3 | 12 | 0 | 23 | 3 | ||
Hàn Quốc | 2000 | 7 | 1 | 8 | 0 | 15 | 1 | |
2001 | 7 | 0 | 3 | 0 | 10 | 0 | ||
2002 | 5 | 2 | 10 | 1 | 15 | 3 | ||
2003 | 1 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | ||
2004 | 2 | 0 | 6 | 0 | 8 | 0 | ||
2005 | 3 | 0 | 5 | 1 | 8 | 1 | ||
2006 | 3 | 0 | 5 | 1 | 8 | 1 | ||
2007 | 2 | 0 | 0 | 0 | 2 | 0 | ||
2008 | 1 | 0 | 6 | 3 | 7 | 3 | ||
2009 | 5 | 0 | 5 | 2 | 10 | 2 | ||
2010 | 7 | 1 | 4 | 1 | 11 | 2 | ||
2011 | 0 | 0 | 5 | 0 | 5 | 0 | ||
Tổng cộng | 43 | 4 | 57 | 9 | 100 | 13 |
Tính đến ngày 25 tháng 1 năm 2011.[3][4]
Bàn thắng quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 7 tháng 6 năm 2000 | Sân vận động Azadi, Tehran, Iran | ![]() |
2–1 | 2–1 | Cúp LG 2000 |
2. | 21 tháng 5 năm 2002 | Sân vận động Jeju World Cup, Seogwipo, Hàn Quốc | ![]() |
1–1 | 1–1 | Giao hữu |
3. | 26 tháng 5 năm 2002 | Sân vận động Suwon World Cup, Suwon, Hàn Quốc | ![]() |
1–1 | 2–3 | Giao hữu |
4. | 14 tháng 6 năm 2002 | Sân vận động Incheon Munhak, Incheon, Hàn Quốc | ![]() |
1–0 | 1–0 | World Cup 2002 |
5. | 8 tháng 6 năm 2005 | Sân vận động Al-Sadaqua Walsalam, Kuwait City, Kuwait | ![]() |
1–0 | 1–0 | Vòng loại World Cup 2006 |
6. | 18 tháng 6 năm 2006 | Red Bull Arena, Leipzig, Đức | ![]() |
1–1 | 1–0 | World Cup 2006 |
7. | 6 tháng 2 năm 2008 | Sân vận động Seoul World Cup, Seoul, Hàn Quốc | ![]() |
3–0 | 4–0 | Vòng loại World Cup 2010 |
8. | 31 tháng 5 năm 2008 | Sân vận động Seoul World Cup, Seoul, Hàn Quốc | ![]() |
1–0 | 2–2 | Vòng loại World Cup 2010 |
9. | 15 tháng 10 năm 2008 | Sân vận động Seoul World Cup, Seoul, Hàn Quốc | ![]() |
2–0 | 4–0 | Vòng loại World Cup 2010 |
10. | 11 tháng 2 năm 2009 | Sân vận động Azadi, Tehran, Iran | ![]() |
1–1 | 1–1 | Vòng loại World Cup 2010 |
11. | 17 tháng 6 năm 2009 | Sân vận động Seoul World Cup, Seoul, Hàn Quốc | ![]() |
1–1 | 1–1 | Vòng loại World Cup 2010 |
12. | 24 tháng 5 năm 2010 | Sân vận động Saitama, Saitama, Nhật Bản | ![]() |
0–1 | 0–2 | Giao hữu |
13. | 12 tháng 6 năm 2010 | Sân vận động Nelson Mandela Bay, Port Elizabeth, Nam Phi | ![]() |
2–0 | 2–0 | World Cup 2010 |
Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ[sửa | sửa mã nguồn]
- Kyoto Purple Sanga
- J2 League (1): 2001
- Cúp Hoàng đế (1): 2002
- PSV Eindhoven
- Eredivisie (2): 2002–03, 2004–05
- Cúp bóng đá Hà Lan (1): 2004–05
- Johan Cruijff Schaal (1): 2003
- Manchester United
- Giải bóng đá Ngoại hạng Anh (4): 2006–07, 2007–08, 2008–09, 2010–11
- Cúp Liên đoàn bóng đá Anh (3): 2005–06, 2008–09, 2009–10
- Siêu cúp Anh (4): 2007, 2008, 2010, 2011
- UEFA Champions League (1): 2007–08
- UEFA Champions League Á quân (2): 2008–09, 2010–11
- FIFA Club World Cup (1): 2008
Đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]
- Hàn Quốc
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ “Premier League clubs submit squad lists” (PDF). Premier League. ngày 2 tháng 2 năm 2012. tr. 23. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2012.
- ^ “Player Profile: Ji-Sung Park”. Premier League. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2012.
- ^ “Ji-Sung Park – Century of International Appearances”. Rec.Sport.Soccer Statistics Foundation. ngày 14 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2011.
- ^ “Park Ji-sung”. National Football Teams. Benjamin Strack-Zimmerman. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2011. Chú thích có tham số trống không rõ:
|1=
(trợ giúp)
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Park Ji-sung. |
![]() |
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- Park Ji-Sung tại KFA (tiếng Triều Tiên)
- Park Ji Sung – Thành tích thi đấu FIFA
- Park Ji-Sung – Thành tích thi đấu tại UEFA
- Park Ji-Sung tại Voetbal International (tiếng Hà Lan)
- Park Ji-sung tại J.League (tiếng Nhật)
- European Cup / UEFA Champions League Winning Squads RSSSF tại Wayback Machine (lưu trữ 2012-04-07)
- Sinh 1981
- Nhân vật còn sống
- Cầu thủ bóng đá Hàn Quốc
- Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Hàn Quốc
- Tiền vệ bóng đá
- Cầu thủ bóng đá Kyoto Sanga FC
- Cầu thủ bóng đá PSV Eindhoven
- Cầu thủ bóng đá Manchester United F.C.
- Cầu thủ bóng đá Queens Park Rangers F.C.
- Cầu thủ bóng đá J1 League
- Cầu thủ bóng đá J2 League
- Cầu thủ bóng đá Eredivisie
- Cầu thủ bóng đá Premier League
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
- Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2001
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2002
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006
- Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2010
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Mùa hè 2000
- Cầu thủ bóng đá Thế vận hội Hàn Quốc
- FIFA Century Club
- Huy chương bóng đá Đại hội Thể thao châu Á
- Cầu thủ bóng đá Đại hội Thể thao châu Á 2002
- Huy chương Đại hội Thể thao châu Á 2002
- Tín đồ Phật giáo Hàn Quốc
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Hà Lan
- Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Nhật Bản