Pháp trong Chiến tranh Cách mạng Mỹ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Các tàu của Pháp (trái) và Anh (phải) tại Trận Chesapeake ngoài khơi Yorktown năm 1781; phần lớn hạm đội Anh đã bị tiêu diệt, khiến Bá tước Cornwallis không còn lựa chọn nào khác ngoài việc phải đầu hàng.

Pháp tham gia vào Chiến tranh Cách mạng Hoa Kỳ (1775–1783), bắt đầu vào năm 1776[1] khi Vương quốc Pháp của Vua Louis XVI bí mật vận chuyển tiếp tế cho Quân đội Lục địa của Mười ba thuộc địa khi nó được thành lập vào tháng 06 năm 1775. Pháp là một đối thủ lịch sử lâu dài với Vương quốc Anh.

Một Hiệp ước liên minh giữa quân đội Pháp và quân lục địa được thực hiện vào năm 1778, dẫn đến việc người Pháp chuyển tài chính, khí tài quân sự và quân đội gửi đến Hoa Kỳ. Một cuộc chiến tranh toàn cầu với Anh bắt đầu ngay sau đó. Đế quốc Tây Ban NhaCộng hòa Hà Lan cũng bắt đầu gửi hỗ trợ cho đồng minh của mình, cùng với các diễn biến chính trị khác ở châu Âu, khiến người Anh không còn đồng minh trong cuộc xung đột (ngoại trừ người Hessia). Tây Ban Nha tuyên chiến vào năm 1779, và chiến tranh giữa Anh và Hà Lan cũng diễn ra ngay sau đó.

Sự giúp đỡ của Pháp là một đóng góp quan trọng và quyết định đối với chiến thắng cuối cùng trong cuộc Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Tuy nhiên, do chi phí tham gia vào cuộc chiến quá lớn, Pháp đã phải gánh khoản nợ hơn 1 tỷ livre (hơn 318,3 tấn vàng ròng theo thời giá năm 1793), điều này gây căng thẳng đáng kể cho nền tài chính triều đình Bourbon. Việc chính phủ Pháp không kiểm soát được chi tiêu (kết hợp với các yếu tố khác) đã dẫn đến tình trạng bất ổn trong nước, mà cuối cùng lên đến đỉnh điểm là một cuộc cách mạng vài năm sau khi xung đột giữa Mỹ và Anh kết thúc. Quan hệ giữa Pháp và Hoa Kỳ sau đó trở nên xấu đi, dẫn đến Chiến tranh Quasi năm 1798.

Nguồn gốc của cuộc xung đột[sửa | sửa mã nguồn]

Sau thất bại trong Chiến tranh Bảy năm năm 1763, Vương quốc Pháp của Vương tộc Bourbon mất toàn bộ lãnh thổ ở Bắc Mỹ. Trong khi đó, các thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ và chính phủ Anh bắt đầu tranh cãi về việc liệu Quốc hội ở London hay các hội đồng thuộc địa sẽ chịu trách nhiệm chính về việc đánh thuế? Là một phần của cuộc xung đột đó, những người ở thuộc địa đã thực hiện hành động Tiệc trà Boston để phản đối thuế đánh vào trà. Chính phủ Anh phản ứng bằng cách thông qua Đạo luật không thể dung thứ (Intolerable Acts), trong đó bao gồm việc đóng cửa Cảng Boston và hủy bỏ hiến chương thuộc địa của Massachusetts.[2] Cuộc xung đột này càng làm căng thẳng thêm trầm trọng. Xung đột ý thức hệ leo thang thành chiến tranh mở vào năm 1775, lúc đó những người yêu nước Mỹ nổi dậy chống lại sự cai trị của Anh. Pháp, quốc gia đang xây dựng lại Hải quân và các lực lượng khác, coi đây là cơ hội hoàn hảo để trả thù cho thất bại trong cuộc chiến trước và làm suy yếu nghiêm trọng kẻ thù của mình.[3]

Sự tham gia của Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Công tước xứ Choiseul tích cực tổ chức lại quân đội và hải quân Pháp cho cuộc chiến trả thù nước Anh trong tương lai.

Pháp cay đắng phẫn nộ vì thất bại trong Chiến tranh Bảy năm và tìm cách trả thù. Họ cũng muốn làm suy yếu nước Anh về mặt chiến lược. Sau khi người Mỹ khẳng định chủ quyền thông qua Tuyên ngôn Độc lập, Cách mạng Mỹ đã được cả dân chúng và tầng lớp quý tộc ở Pháp đón nhận nồng nhiệt. Cách mạng được coi là hiện thân của Tinh thần Khai sáng chống lại "chế độ chuyên chế Anh". Benjamin Franklin đến Pháp vào tháng 12 năm 1776 để vận động sự ủng hộ và ông được chào đón rất nhiệt tình. Lúc đầu, sự hỗ trợ của Pháp là bí mật. Đặc vụ Pháp đã gửi viện trợ quân sự cho Patriots (chủ yếu là thuốc súng) thông qua một công ty tên là Rodrigue Hortalez et Compagnie, bắt đầu từ mùa xuân năm 1776. Người ta ước tính tỷ lệ vũ khí do Pháp cung cấp cho người Mỹ trong chiến dịch Saratoga lên tới 90%.[4] Đến năm 1777, hơn 5 triệu livre viện trợ đã được gửi đến quân nổi dậy thuộc địa.

Được thúc đẩy bởi viễn cảnh vinh quang trong trận chiến hoặc được thúc đẩy bởi những lý tưởng chân thành về tự do và chủ nghĩa cộng hòa, những tình nguyện viên như Pierre Charles L'Enfant đã gia nhập quân đội Mỹ. Nổi tiếng nhất là Hầu tước Lafayette, một quý tộc trẻ đã bất chấp mệnh lệnh của nhà vua và nhập ngũ năm 1777 ở tuổi 20. Ông trở thành phụ tá cho Tướng George Washington và là tướng chiến đấu. Quan trọng hơn, ông đã củng cố quan điểm có lợi của Mỹ đối với Pháp. Kramer lập luận rằng Lafayette mang lại tính hợp pháp cho cuộc chiến và tin tưởng rằng có sự ủng hộ nghiêm túc của châu Âu cho nền độc lập. Phong cách cá nhân của Lafayette rất hấp dẫn; chàng trai trẻ học hỏi nhanh chóng, thích nghi với phong cách Ái quốc, tránh xa chính trị và nhanh chóng trở thành bạn của Tướng Washington. Năm mươi năm sau, sau khi đạt sự nghiệp quan trọng trong chính trường Pháp, ông trở lại Mỹ như một anh hùng chiến tranh được yêu mến.[5]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Van Tyne, C. H. (tháng 10 năm 1925). “French Aid Before the Alliance of 1778”. The American Historical Review. 31 (1): 40. doi:10.2307/1904500. hdl:2027/mdp.39015027014961. JSTOR 1904500. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2021.
  2. ^ “1774: Parliament passes the Boston Port Act”. History Channel. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2017.
  3. ^ Hoffman, Ronald, and Peter J. Albert, eds. Diplomacy and Revolution: The Franco-American Alliance of 1776 (the United States Capitol Historical Society, 1981)
  4. ^ Journal of the American Revolution, "The Gunpowder shortage" (September 9, 2013).[1]
  5. ^ Lloyd S. Kramer, "America's Lafayette and Lafayette's America: A European and the American Revolution," William & Mary Quarterly (1981) 38#2 pp 228-241.JSTOR 1918776

2008

Tiếng Anh[sửa | sửa mã nguồn]

  • Allison, David K; Ferreiro, Larrie D biên tập (2018). The American Revolution: A World War. Smithsonian Institution. ISBN 9781588346599.
  • Bemis, Samuel Flagg. The Diplomacy of the American Revolution (1935)
  • Brown, John L. "Revolution and the Muse: the American War of Independence in Contemporary French Poetry." William and Mary Quarterly 1984 41(4): 592–614. Issn: 0043-5597 Fulltext in : Jstor
  • Brecher, Frank W. Securing American Independence: John Jay and the French Alliance. Praeger Publishers, 2003. Pp. xiv, 327 online Lưu trữ 2012-05-05 tại Wayback Machine
  • Chartrand, René, and Back, Francis. The French Army in the American War of Independence Osprey; 1991.
  • Corwin, Edward S. French Policy and the American Alliance of 1778 Archon Books; 1962.
  • Dull, Jonathan R. A Diplomatic History of the American Revolution; Yale U. Press, 1985.
  • Dull, Jonathan R. The French Navy and American Independence: A Study of Arms and Diplomacy 1774–1787 (1975)
  • Kaplan, Lawrence S. "The Diplomacy of the American Revolution: the Perspective from France." Reviews in American History 1976 4(3): 385–390. review of Dull (1975) in JSTOR
  • Gottschalk, Louis. Lafayette Comes to America 1935 online Lưu trữ 2008-12-07 tại Wayback Machine; Lafayette Joins the American Army (1937)
  • Hoffman, Ronald and Albert, Peter J., ed. Peace and the Peacemakers: The Treaty of 1783. U. Press of Virginia, 1986. 263 pp.
  • Hoffman, Ronald and Albert, Peter J., ed. Diplomacy and Revolution: The Franco-American Alliance of 1778. U. Press of Virginia, 1981. 200 pp.
  • Hudson, Ruth Strong. The Minister from France: Conrad-Alexandre Gérard, 1729–1790. Lutz, 1994. 279 pp.
  • Hutson, James H. John Adams and the Diplomacy of the American Revolution (1980)
  • Kennett, Lee. The French Forces in America, 1780–1783.Greenwood, 1977. 188 pp.
  • Kramer, Lloyd. Lafayette in Two Worlds: Public Cultures and Personal Identities in an Age of Revolutions. (1996). 355 pp.
  • Morris, Richard B. "The Great Peace of 1783," Massachusetts Historical Society Proceedings (1983) Vol. 95, pp 29–51.
  • Morris, Richard B. The Peacemakers: The Great Powers and American Independence (1975)
  • Perkins, James Breck. France in the American Revolution 1911 online Lưu trữ 2009-06-25 tại Wayback Machine
  • Popofsky, Linda S. and Sheldon, Marianne B. "French and American Women in the Age of Democratic Revolution, 1770–1815: a Comparative Perspective." History of European Ideas1987 8(4–5): 597–609. Issn: 0191-6599
  • Pritchard, James. "French Strategy and the American Revolution: a Reappraisal." Naval War College Review 1994 47(4): 83–108. Issn: 0028-1484
  • Schaeper, Thomas J. France and America in the Revolutionary Era: The Life of Jacques-Donatien Leray de Chaumont, 1725–1803. Berghahn Books, 1995. 384 pp. He provided military supplies.
  • Tombs, Isabelle; Tombs, Robert (2010). That Sweet Enemy: The British and the French from the Sun King to the Present. Random House. ISBN 9781446426234.
  • Unger, Harlow Giles. Lafayette Wiley, 2002 online Lưu trữ 2010-11-20 tại Wayback Machine
  • Van Tyne, C. H. "Influences which Determined the French Government to Make the Treaty with America, 1778," American Historical Review (1916) 21#3 pp. 528–541 in JSTOR
  • Van Tyne, C. H. "French Aid Before the Alliance of 1778," American Historical Review (1925) 31#1 pp. 20–40 in JSTOR

Nguồn chính[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lafayette, Marquis de. Lafayette in the Age of the American Revolution: Selected Letters and Papers, 1776–1790. Vol. 2: April 10, 1778–March 20, 1780. Cornell U. Press, 1979. 518 pp.

Tiếng Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

  • Susan Mary Alsop, Les Américains à la cour de Louis XVI, 1982. Traduction française : Jean-Claude Lattès (1983).
  • Henri Haeau, Complot pour l'Amérique 1775–1779, Paris, Éditions Robert Laffont, 1990, ISBN 2-221-05364-8
  • J.-M. Bizière et J. Sole, Dictionnaire des Biographies, Paris, Éditions du Seuil, 1993.
  • Olivier Chaline, La France au XVIIIe siècle (1715–1787), Paris, Éditions Belin, 1996.
  • Joël Cornette, Absolutisme et Lumière 1652–1783, collection Carré Histoire, Paris, Éditions Hachette, 2000. ISBN 2-01-145422-0
  • Jean Egret, Necker, ministre de Louis XVI, 1776–1790, Honoré Champion; Paris, 1975.
  • André Zysberg, La Monarchie des Lumières (1775–1786), Paris, Éditions du Seuil, 2002.