Pomacanthus xanthometopon

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Pomacanthus xanthometopon
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Pomacanthidae
Chi (genus)Pomacanthus
Phân chi (subgenus)Euxiphipops
Loài (species)P. xanthometopon
Danh pháp hai phần
Pomacanthus xanthometopon
(Bleeker, 1853)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Holacanthus xanthometopon Bleeker, 1853

Pomacanthus xanthometopon là một loài cá biển thuộc chi Pomacanthus trong họ Cá bướm gai. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1862.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài cá này, xanthometopon, được ghép bởi hai từ trong tiếng Latinh: xanthus ("màu vàng") và metopon ("trán"), hàm ý đề cập đến dải màu vàng xung quanh vùng mắt của chúng[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

P. xanthometopon và "tấm mạng che mặt" màu xanh lam

P. xanthometopon có phạm vi phân bố rộng rãi ở Đông Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương.[1] Loài cá này được tìm thấy ở ngoài khơi Ấn Độ, Sri LankaMaldives, trải rộng khắp vùng biển các nước Đông Nam Á, Papua New Guineaquần đảo Solomon ở phía đông; phạm vi của P. xanthometopon trải dài đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản) ở phía bắc và đến New Caledoniarạn san hô Great Barrier ở phía nam; xa nhất về phía đông là đến Vanuatuquần đảo Caroline (Liên bang MicronesiaPalau)[1].

P. xanthometopon lần đầu tiên được ghi nhận ở vùng biển Hoa Kỳ vào năm 1995, khi một cá thể P. xanthometopon được quan sát ở vùng biển giữa quận Browardquận Palm Beach (thuộc bang Florida). Năm 2006, P. xanthometopon tiếp tục được quan sát ở ngoài khơi Fort Lauderdale, Florida[3][4]. Không một cá thể P. xanthometopon nào được phát hiện thêm ở Hoa Kỳ trong hơn 10 năm kể từ đó[5].

P. xanthometopon sống gần các rạn san hô và các hang động ở độ sâu khoảng từ 5 đến 30 m[1].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Cá con của P. xanthometopon

Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở P. xanthometopon là 38 cm[6]. Mặt của P. xanthometopon có các đường vân màu lam sẫm chằng chịt như một tấm mạng với một vùng màu vàng băng qua hai mắt. Đỉnh đầu có một mảng màu đen. Những lớp vảy trên thân có màu xanh lam, được viền màu vàng. Vùng ngực, phần sau của vây lưng và vây hậu môn, vây ngực và vây đuôi có màu vàng tươi; vây bụng màu đen. Tất cả các vây của P. xanthometopon có viền màu xanh ánh kim. Vây lưng và vây hậu môn có những đốm nhỏ màu xanh lam, riêng vây lưng có một đốm đen lớn nổi bật ở phía sau[7][8]

Cá con của P. xanthometoponmàu đen với các dải sọc màu trắng và sọc mảnh màu xanh lam ở hai bên cơ thể. Thân và các vây được viền một dải màu xanh lam[7].

Số gai ở vây lưng: 13–14; Số tia vây ở vây lưng: 16–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 18–19; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5[6].

Sinh thái[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn chủ yếu của P. xanthometoponhải miên (bọt biển) và những loài thuộc phân ngành Sống đuôi (hải tiêu)[9]. Chúng có thể sống đơn độc hoặc bơi theo cặp[9].

Những cá thể lai giữa P. xanthometopon với hai loài cùng chi là Pomacanthus navarchusPomacanthus sexstriatus đã được quan sát và ghi nhận tại vùng biển của Indonesia và bang Queensland (Úc). Ngoài ra, con lai P. navarchus × P. xanthometopon còn được biết đến tại Philippines[10].

Thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

P. xanthometopon thi thoảng được đánh bắt nhằm mục đích thương mại cá cảnh[9], nhưng điều này không ảnh hưởng nhiều đến sự suy giảm số lượng của loài cá này trên toàn cầu[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e Pyle, R.; Myers, R.F.; Rocha, L.A.; Craig, M.T. (2010). Pomacanthus xanthometopon. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T165829A6143143. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T165829A6143143.en. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Christopher Scharpf; Kenneth J. Lazara (2020). “Order ACANTHURIFORMES (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2020.
  3. ^ P. J. Schofield (2020). Pomacanthus xanthometopon (Bleeker, 1853)”. Nonindigenous Aquatic Species Database. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2020.
  4. ^ P. J. Schofield; J. A. Morris; L. Akins (2009). “Field Guide to Nonindigenous Marine Fishes of Florida” (PDF). NOAA Technical Memorandum NOS NCCOS. 92: 40–41. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 15 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2020. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  5. ^ P. J. Schofield; Lad Akins (2019). “Non-native marine fishes in Florida: updated checklist, population status and early detection/rapid response” (PDF). BioInvasions Records. 8 (4): 898–910. doi:10.3391/bir.2019.8.4.18.
  6. ^ a b Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2019). Pomacanthus xanthometopon trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2019.
  7. ^ a b John E. Randall; Gerald Robert Allen; Roger C. Steene (1998). Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 246. ISBN 978-0824818951.
  8. ^ Joe Shields (biên tập). Pomacanthus xanthometopon Pomacanthidae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2020.
  9. ^ a b c R. Pyle (2001). K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 5. Bony fishes part 3 (Menidae to Pomacentridae) (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3286. ISBN 978-9251045893.
  10. ^ Federico Vitelli (2019). “Causes and possible consequences of hybridisation in angelfishes at Christmas Island”: tr.11. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]