Rùa đảo Pinta

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Pinta Island tortoise
George Cô độc tại Trạm nghiên cứu Charles Darwin vào năm 2006, cá thể cuối cùng được biết đến trong loài rùa Galápagos
Phân loại khoa học edit
Giới: Animalia
Ngành: Chordata
Lớp: Reptilia
Bộ: Testudines
Phân bộ: Cryptodira
Liên họ: Testudinoidea
Họ: Testudinidae
Chi: Chelonoidis
Loài:
C. abingdonii
Danh pháp hai phần
Chelonoidis abingdonii
(Günther, 1877)[2]
Bản đồ Quần đảo Galápagos cho biết vị trí của các loài
Các đồng nghĩa[3]
  • Testudo abingdonii Günther, 1877
  • Testudo elephantopus abingdonii Mertens & Wermuth, 1955
  • Geochelone elephantopus abingdonii Pritchard, 1967
  • Geochelone nigra abingdonii Iverson, 1992
  • Geochelone abingdonii Valverde, 2004

Rùa đảo Pinta hay rùa đảo Abingdon (danh pháp khoa học: Chelonoidis abingdonii) là một trong 11 phân loài của phức hợp loài rùa Galápagos - động vật đặc hữu của quần đảo Galápagos[4][5]. Cá thể cuối cùng của phân loài này là một con rùa đực có tên gọi là George cô độc (tiếng Tây Ban Nha: Solitario Jorge[6], tiếng Anh: Lonesome George[5]). Nó đã chết vào ngày 24 tháng 6 năm 2012[6][7][8]. Trong những năm cuối cùng của cuộc đời, George cô độc được coi là sinh vật hiếm nhất trên thế giới và là biểu tượng nổi bật cho những nỗ lực bảo vệ môi trường ở Galápagos nói riêng và quốc tế nói chung[9].

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

George cô độc được nhà nghiên cứu động vật thân mềm người Hungary Joseph Vagvolgyi nhìn thấy lần đầu trên đảo Pinta (đảo Abingdon) vào ngày 1 tháng 12 năm 1971. Do sự xuất hiện của loài dê hoang dã trên đảo, thảm thực vật của Pinta đã bị mai một đáng kể dẫn tới sự suy giảm số lượng của C. nigra abingdonii, phân loài rùa sống trên đảo mà khi đó George được coi là cá thể còn sống sót cuối cùng. Sau khi được phát hiện, George cô độc được chuyển về Trung tâm Nghiên cứu Charles Darwin. Ngày 24 tháng 6 năm 2012, George cô độc đã chết vì nguyên nhân chưa rõ[10][11]. Người ta tin rằng nó đã trên 100 tuổi, và cân nặng tới 91 kg (200 lbs). Sự kiện này đánh dấu sự tuyệt chủng hoàn toàn của phân loài rùa này[12].

Khả năng còn tồn tại trong tự nhiên của phân loài[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 5 năm 2007, một phân tích chuỗi gen đưa ra kết luận rằng có thể một số cá thể khác của phân loài Chelonoidis nigra abingdoni vẫn còn tồn tại.[13] Các nhà nghiên cứu đã xác định một con rùa đực trên Isabela có một nửa gen giống với phân loài của George. Có thể đây là một cá thể lai đời thứ nhất giữa phân loài đảo Pinta và phân loài đảo Isabela.[13] Và như vậy rất có thể một cá thể rùa Pinta thuần chủng vẫn còn sống giữa 2.000 con rùa trên đảo Roliyma - Awinsydwido.[14]

Nỗ lực nhân giống[sửa | sửa mã nguồn]

George được cho cặp đôi với hai con rùa cái khác của phân loài Chelonoidis nigra becki có nguồn gốc từ đảo Wolf với hy vọng rằng kiểu di truyền của George sẽ được bảo tồn qua quá trình sinh sản. Phân loài này được coi là gần gũi nhất về mặt gen so với phân loài mà George đại diện, tuy nhiên bất cứ con cháu nào của George và các con rùa cái cũng chỉ là dạng quá độ chứ không phải là một cá thể thuần chủng của loài rùa trên đảo Pinta.[11]

Trong vài thập niên, những nỗ lực nhân giống phân loài của George đều thất bại, lý do rất có thể là vì sự thiếu vắng một con cái thuộc phân loài này, vì vậy các nhà nghiên cứu của Trung tâm Darwin đã đưa ra giải thưởng trị giá 10.000 đô la Mỹ cho ai tìm được một con rùa cái phù hợp với George.[5] Ngày 21 tháng 7 năm 2008, có tin rằng George đã bất ngờ giao phối với một trong các con rùa cái, tổng cộng người ta đã thu được 13 quả trứng và chúng lập tức được đưa vào lò ấp.[15] Tuy nhiên tới ngày 11 tháng 11 thì Trung tâm Darwin xác nhận rằng 80% số trứng có vấn đề[15][16] và tới tháng 12 thì số trứng còn lại cũng không thể ấp nở, việc kiểm tra bằng tia X cho thấy rằng chúng đã bị hỏng.[17]

Ngày 21 tháng 7 năm 2009, đúng một năm sau sự kiện năm 2008, Vườn quốc gia Galápagos cho rằng một con rùa cái khác sống cùng George đã đẻ ra thêm 5 quả trứng mới.[18] Lượt trứng này cũng lập tức đưa vào phòng ấp với hy vọng rằng đây là những quả trứng đã được thụ tinh không thực sự

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Cayot, L.J.; Gibbs, J.P.; Tapia, W.; Caccone, A. (2016). Chelonoidis abingdonii. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T9017A65487433. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-1.RLTS.T9017A65487433.en. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2021.
  2. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Rhodin11
  3. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Reptarium
  4. ^ Geochelone nigra, Sách đỏ IUCN
  5. ^ a b c Gardner, Simon (ngày 6 tháng 2 năm 2001). “Lonesome George faces own Galapagos tortoise curse”. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2012.
  6. ^ a b Proceso de Relaciones Públicas de la Dirección del Parque Nacional Galápagos (ngày 24 tháng 6 năm 2012). “El mundo pierde al solitario George”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  7. ^ “Lonesome George, last-of-his-kind Galapagos tortoise, dies”. ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  8. ^ Raferty, Isolde. “Lonesome George, last-of-its-kind Galapagos tortoise, dies”. MSNBC.com. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp)
  9. ^ Nicholls, H (2006), Lonesome George: The Life and Loves of a Conservation Icon, London: Macmillan Science, ISBN 1-4039-4576-4, Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016, truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2009
  10. ^ “Lonesome George, last-of-his-kind Galapagos tortoise, dies”. Chicago Tribune. Reuters. ngày 24 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  11. ^ a b “Joy at giant tortoise eggs”. BBC. 23 tháng 7 năm 2008.
  12. ^ Alvear, Cecilia (ngày 24 tháng 6 năm 2012). “Lonesome George RIP!”. Galápagos Digital. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2012.
  13. ^ a b Russello, Michael A.; Beheregaray, Luciano B.; Gibbs, James P.; Fritts, Thomas; Havill, Nathan; Powell, Jeffrey R.; Caccone., Adalgisa (1 tháng 5 năm 2007), “Lonesome George is not alone among Galápagos tortoises” (PDF), Current Biology, 17 (9): R317–R318, doi:10.1016/j.cub.2007.03.002, Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2009, truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2022
  14. ^ “Iconic tortoise George may not be last of his kind”. 2007-05-01. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  15. ^ a b “Dwindling Hopes of Offspring from Lonesome”. Charles Darwin Foundation. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2008. Truy cập 11 tháng 11 năm 2008.
  16. ^ “Galapagos bachelor tortoise struggles to be a dad”. CBC. 11 tháng 11 năm 2008.
  17. ^ “Lonesome George's first sex in decades ends in disappointment”. The Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2014. Truy cập 27 tháng 1 năm 2009.
  18. ^ “New eggs spark Galapagos tortoise hopes”. WA Today. 22 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2009.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]