Rối loạn tâm trạng
Rối loạn tâm trạng | |
---|---|
![]() | |
Một người đàn ông có ý định tự sát sau những giây phút thoải mái trong bồn tắm. Bức vẽ của họa sĩ Anh Konge. | |
Chuyên khoa | Khoa tâm thần |
ICD-10 | F30 - F39 |
ICD-9-CM | 296 |
MeSH | D019964 |

Rối loạn tâm trạng, còn được gọi là rối loạn cảm xúc tâm trạng, là một nhóm các tình trạng trong đó sự rối loạn tâm trạng của con người là đặc điểm cơ bản chính.[1] Việc phân loại này nằm trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM) và Phân loại Quốc tế về Bệnh (ICD).
Rối loạn tâm trạng rơi vào các nhóm cơ bản của tâm trạng tăng cao, chẳng hạn như hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ; tâm trạng chán nản, trong đó nổi tiếng nhất và được nghiên cứu nhiều nhất là rối loạn trầm cảm chính (MDD) (thường được gọi là trầm cảm lâm sàng, trầm cảm đơn cực hoặc trầm cảm chính); và tâm trạng xoay quanh hưng cảm và trầm cảm, được gọi là rối loạn lưỡng cực (BD) (trước đây gọi là trầm cảm hưng cảm). Có một số loại rối loạn trầm cảm hoặc hội chứng tâm thần có các triệu chứng ít nghiêm trọng hơn như rối loạn dysthymic (tương tự nhưng nhẹ hơn MDD) và rối loạn cyclothymic (tương tự nhưng nhẹ hơn so với BD).[2] Rối loạn tâm trạng cũng có thể là do chất gây ra hoặc xảy ra để đáp ứng với một tình trạng y tế.
Nhà tâm thần học người Anh Henry Maudsley đề xuất một phạm trù bao trùm của rối loạn cảm xúc.[3] Thuật ngữ này sau đó được thay thế bằng rối loạn tâm trạng, vì thuật ngữ sau đề cập đến trạng thái cảm xúc cơ bản hoặc theo chiều dọc,[4] trong khi thuật ngữ rối loạn cảm xúc đề cập đến biểu hiện bên ngoài được người khác quan sát thấy.[1]
Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]
Rối loạn trầm cảm[sửa | sửa mã nguồn]
Rối loạn trầm cảm chính (MDD), thường được gọi là trầm cảm lớn, trầm cảm đơn cực hoặc trầm cảm lâm sàng, trong đó một người có một hoặc nhiều đợt trầm cảm chính. Sau một tập duy nhất, Rối loạn trầm cảm chính (cơn duy nhất) sẽ được chẩn đoán. Sau hơn một cơn, chẩn đoán trở thành Rối loạn trầm cảm chính tái phát). Trầm cảm không có thời kỳ hưng cảm đôi khi được gọi là trầm cảm đơn cực vì tâm trạng vẫn ở "cực" dưới cùng và không leo đến "cực" hưng cảm như trong rối loạn lưỡng cực.[5]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b Sadock 2002, tr. 534
- ^ Carlson 2007
- ^ Lewis, AJ (1934). “Melancholia: A Historical Review”. Journal of Mental Science. 80 (328): 1–42. doi:10.1192/bjp.80.328.1. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 12 năm 2008.
- ^ Berrios, G E (1985). “The Psychopathology of Affectivity: Conceptual and Historical Aspects”. Psychological Medicine. 15 (4): 745–758. doi:10.1017/S0033291700004980. PMID 3909185.
- ^ Parker 1996, tr. 173
Sách tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- American Psychiatric Association (2000). Diagnostic and statistical manual of mental disorders, Fourth Edition, Text Revision: DSM-IV-TR. Washington, DC: American Psychiatric Publishing, Inc. tr. 943. ISBN 978-0-89042-025-6.
- Parker, Gordon; Dusan Hadzi-Pavlovic; Kerrie Eyers (1996). Melancholia: A disorder of movement and mood: a phenomenological and neurobiological review. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-47275-3.
- Sadock, Benjamin J.; Sadock, Virginia A. (2002). Kaplan and Sadock's Synopsis of Psychiatry: Behavioral Sciences/Clinical Psychiatry (ấn bản 9). Lippincott Williams & Wilkins. ISBN 978-0-7817-3183-6.
- Carlson, Neil R.; C. Donald Heth (2007). Psychology the science of behaviour (ấn bản 4). Pearson Education Inc. ISBN 978-0-205-64524-4.