Revival (album của Eminem)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Revival
Bìa album là quốc kỳ Hoa Kỳ đang bay với hình Eminem ở đằng sau nền. Góc trên cùng bên phải là tựa đề album.
Album phòng thu của Eminem
Phát hành15 tháng 12 năm 2017 (2017-12-15)
Thu âmTháng 10 năm 2016–2017
Thể loại
Thời lượng77:39
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự album của Eminem
The Marshall Mathers LP 2
(2013)
Revival
(2017)
Kamikaze
(2018)
Đĩa đơn từ Revival
  1. "Walk on Water"
    Phát hành: 10 tháng 11 năm 2017
  2. "River"
    Phát hành: 15 tháng 12 năm 2017
  3. "Nowhere Fast"
    Phát hành: 27 tháng 3 năm 2018
  4. "Remind Me"
    Phát hành: 6 tháng 7 năm 2018 (chỉ phát hành dưới dạng đĩa đơn ở Ý)[3]

Revival là album phòng thu thứ chín của rapper người Mỹ Eminem. Album được Aftermath Entertainment, Shady RecordsInterscope Records phát hành vào ngày 15 tháng 12 năm 2017.[4]

Việc chuẩn bị cho album đã diễn ra từ 2016 đến 2017 tại nhiều phòng thu khác nhau. Ngoài Eminem, nhiều nhà sản xuất thu âm khác nhau, bao gồm Rick Rubin, Fredwreck, Skylar Gray, Alex da Kid và nhà sản xuất điều hành Dr. Dre, còn tham gia vào việc sản xuất âm nhạc.[5] Revival có sự xuất hiện của các nghệ sĩ khách mời Beyoncé, Phresher, Ed Sheeran, Alicia Keys, X Ambassadors, Skylar Gray, KehlaniPink.

Đĩa đơn chủ đạo của album, "Walk on Water", với giọng ca của Beyoncé, được phát hành vào ngày 10 tháng 11 năm 2017. "Untouchable" được phát hành làm đĩa đơn quảng bá vào ngày 8 tháng 12, một tuần trước khi phát hành album. Đĩa đơn thứ ba của album, "Nowhere Fast", với giọng ca của Kehlani, được phát hành vào ngày 27 tháng 3 năm 2018.[6] Đĩa đơn thứ tư "Remind Me" được phát hành vào ngày 6 tháng 7 năm 2018.[3] Một video âm nhạc cho "Framed" được phát hành vào ngày 3 tháng 4 năm 2018.

Trong khi chia rẽ các nhà phê bình, album ra mắt ở vị trí số 1 ở Úc, Canada, Phần Lan, Anh và Mỹ. Revival cũng là album số một Giáng sinh của Anh năm 2017.[7] Album phòng thu thứ mười và tiếp theo của Eminem với tựa đề Kamikaze được phát hành tám tháng sau đó mà không thông báo trước.

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Eminem lần đầu tiết lộ rằng anh đang chuẩn bị một album khi công bố bài hát "Campaign Speech" trên Twitter vào tháng 10 năm 2016 và viết: "Đừng lo lắng tôi đang làm một album! Trong lúc chờ tôi có cái này."[8] Cuối năm 2016, xuất hiện những tin đồn nói rằng album sẽ được gọi là Success và sẽ được phát hành vào tháng 1 năm 2017.[9] Một danh sách ca khúc giả cũng bị rò rỉ, trong đó ghi những nghệ sĩ khách mời là Adele, Chance the Rapper, Kid Cudi, Vince Staples, The Weeknd và Mástein Bennett.[10] Tin đồn đã được châm ngòi một lần nữa vào tháng 2 và tháng 3 năm 2017, khi Eminem tuyên bố anh đang dẫn đầu ba chương trình tại Reading, GlasgowLeeds.[11][12] Nhiều bài báo cho biết rằng vì anh ấy đang biểu diễn, anh ấy sẽ phải phát hành tài liệu mới để biểu diễn, hoặc ít nhất là xem trước, tại các lễ hội.[13]

Vào ngày 10 tháng 10 năm 2017, Eminem chỉ trích Tổng thống Donald Trump khi trình diễn"The Storm" tại Lễ trao giải BET Hip Hop 2017. Màn trình diễn trở nên thịnh hành, thu hút hàng triệu lượt xem và hàng trăm nghìn lượt thích trên YouTube chỉ trong vài tuần.[a] Revival có nhiều dòng chỉ trích chiến dịch tranh cử và bầu cử tổng thống của Trump, gọi ông là một kẻ phân biệt chủng tộc, một tên quốc xãAdolf Hitler cùng những lời lăng mạ khác[b] và một giấc mơ trong đó nam rapper bị "đổ tội" giết Ivanka Trump.[16][17] Anh cũng chia sẻ sự hối tiếc vì đã hợp tác với Trump trong một hội nghị quốc gia giả.[18][c] Trong "The Ringer" từ album Kamikaze năm 2018, Eminem xin lỗi vì đã xa lánh những người hâm mộ ủng hộ Trump và nói rằng anh đã bị Cơ quan Mật vụ Hoa Kỳ nghi ngờ về ca từ có vẻ đe dọa của mình.[19][d]

Ngày 25 tháng 10 năm 2017, Paul Rosenberg đăng một bức ảnh về Trial by Fire của Yelawolf lên Instagram.[21] Trong nền của bức ảnh, có bảng quảng cáo một loại thuốc gọi là "Revival". Nhiều người hâm mộ đã nghi ngờ khi nhận thấy rằng chữ 'E' trong "Revival" đã bị đảo ngược giống như các logo trước đây của Eminem. Trên trang web xuất hiện trong biển quảng cáo, một video quảng bá cho Revival[22] gợi nhắc đến ca khúc "Lose Yourself" của Eminem. Trang web này cũng nhắc đến "Sing for the Moment", "Brain Damage", "Fack", "Role Model" và "Any Man" Theo trang web, "Revival" dùng để điều trị "Atrox Rithimus", một loại bệnh không có thật. Một bản dịch tiếng Latin của Atrox Rithimus nghĩa là 'cách gieo vần tệ'.[23] Trang web này cũng đăng ký một trong những nhãn đĩa của Eminem là Interscope Records.[24] Khi gọi số điện thoại của "Revival", nó sẽ phát nhạc nền của bài hát "I Need a Doctor" của Dr. Dre với sự góp giọng của Eminem.[25] Những chi tiết này khiến người hâm mộ tin rằng album mới của Eminem sẽ được gọi là Revival. Cái tên này khá thích hợp với tên của hai trong số ba album solo cuối cùng của anh, RelapseRecovery.

Phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Skylar Grey (trái) và Rick Rubin (phải) là các nhà sản xuất của album.
Ed Sheeran, người góp giọng cho ca khúc "River".

Đĩa đơn chính, "Walk on Water", lần đầu tiên được Eminem trình diễn tại giải Âm nhạc châu Âu của MTV năm 2017 vào ngày 12 tháng 11 với giọng ca của nhà đồng sản xuất và người viết lời Skylar Gray.[26] Cả hai đã biểu diễn ca khúc và bản hòa tấu "Stan" / "Love the Way You Lie" trên Saturday Night Live vào ngày 18 tháng 11.

Ngày 28 tháng 11 năm 2017, ngày phát hành album được công bố là ngày 15 tháng 12 trên các tài khoản mạng xã hội của Dr. Dre và Eminem.[27] Ngày 5 tháng 12 năm 2017, Eminem chia sẻ một danh sách đầy đủ tất cả các ca khúc có trong album thông qua tài khoản Instagram của mình. Danh sách có tổng cộng 19 bài hát và có sự tham gia của các nghệ sĩ như Phresher, Ed Sheeran, Skylar Gray, Alicia Keys, X Ambassadors, Pink và Kehlani.[28]

Vào ngày 7 tháng 12 năm 2017, bìa album được tiết lộ và chiếu lên một tòa nhà Detroit. Tối hôm đó, bài hát "Untouchable" được phát hành và người nghe có thể đặt hàng trước trên iTunes.[29]

Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Beyoncé là giọng ca chính cho đĩa đơn "Walk on Water".

Ngày 8 tháng 11 năm 2017, Eminem đã tweet một bức ảnh chụp toa thuốc của bác sĩ với các dòng chữ "Walk on Water" và "Take as needed" (uống khi cần thiết).[30] Ngoài ra, ghi chú của bác sĩ đã được dán nhãn logo cho Revival. Điều này gây ra suy đoán rằng đĩa đơn đầu tiên sẽ có tựa đề "Walk on Water".[31][32][33] Ngày 9 tháng 11, Paul Rosenberg chia sẻ một video trên Instagram thể hiện mối liên hệ giữa viên thuốc "Revival" và "Walk on Water". Anh cũng xác nhận bài hát và ngày hôm sau, "Walk on Water" được phát hành.[34][35] Eminem đã đăng tải một audio lên YouTube. Tính đến ngày 16 tháng 12 năm 2017, video có gần 50 triệu lượt xem và hơn 1,1 triệu lượt thích. Ngày 23 tháng 12 năm 2017, video âm nhạc cho bài hát được phát hành độc quyền trên Apple Music và kênh kênh Vevo chính thức của Eminem. "Walk on Water" ra mắt ở vị trí số 14 trên Billboard Hot 100, đây là xuất hiện lần thứ 57 trên bảng xếp hạng đối với cả hai nghệ sĩ.

"River" với giọng ca của Ed Sheeran được phát hành làm đĩa đơn thứ hai của album. Ca khúc được phát hành lên đài phát thanh vào ngày 5 tháng 1 năm 2018 và dưới dãng đĩa đơn vào ngày 7 tháng 2. Ngày 14 tháng 12 năm 2017, Eminem đăng tải một audio lên kênh YouTube của mình. Tính đến ngày 15 tháng 1 năm 2018, video đã có hơn 60 triệu lượt xem và 1 triệu lượt thích.[36] Ngày 14 tháng 2 năm 2018, video âm nhạc cho bài hát được phát hành trên kênh Vevo chính thức của Eminem. Về diễn biến thương mại, ca khúc đã đạt vị trí số 1 tại Anh Quốc, Na Uy và Thụy Điển, đồng thời lọt vào top 10 tại Úc, Áo, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Đức, Hungary, Ireland, Ý, Hà Lan, New Zealand, Bồ Đào Nha và Thụy Sĩ và top 20 tại Bỉ và Hoa Kỳ.

Đĩa đơn thứ ba của album, "Nowhere Fast" với giọng ca Kehlani, đã tác động đến đài phát thanh đương đại của Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 3 năm 2018.[6] Hai nghệ sĩ đã trình diễn bài hát tại Lễ trao giải âm nhạc iHeartRadio 2018.[37] "Remind Me" được phát hành cho đài phát thanh Ý làmmm đĩa đơn thứ tư của album vào ngày 6 tháng 7 năm 2018.[3]

Ngày 3 tháng 4 năm 2018, video âm nhạc cho ca khúc horrorcore "Framed" được phát hành. Video lấy cảm hứng từ những bộ phim kinh dị thập niên 80.

Đĩa đơn quảng bá[sửa | sửa mã nguồn]

"Untouchable" được phát hành dưới dạng đĩa đơn quảng bá vào ngày 8 tháng 12 năm 2017. Ca khúc lấy nhạc mẫu từ bài "Earache My Eye" của bộ đôi hài Cheech & Chong.[38] Một bản phối lại của "Chloraseptic" với sự tham gia của 2 Chainz và Phresher được phát hành làm đĩa đơn quảng bá thứ hai cho album vào ngày 8 tháng 1 năm 2018.[39]

Tiếp nhận phê bình[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
AnyDecentMusic?4,3/10[40]
Metacritic50/100[41]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[42]
The A.V. ClubD+[43]
Consequence of SoundF[44]
The Daily Telegraph[45]
The Guardian[46]
The Independent[47]
NME[48]
The Observer[49]
Pitchfork5,0/10[50]
Rolling Stone[51]

Sau khi phát hành, nhìn chung, Revival nhận được những ý kiến trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc. Nhiều người trong số họ đưa ra những quan điểm khác nhau về sự thiếu tính trọng tâm, phần ca từ, về việc sử dụng quá nhiều các đoạn nhạc mẫu của các bài hát rock, cũng như về số lượng nhiều đến mức thừa thãi của các nghệ sĩ pop khách mời trong album.[52] Trên Metacritic, một trang đưa ra số điểm chuẩn trên thang 100 dựa trên đánh giá của các xuất bản phẩm phổ biến, album nhận được điểm trung bình là 50 dựa trên 24 đánh giá, tương ứng với nhận xét "các đánh giá trái chiều hoặc ở mức trung bình". Don Needham từ tờ The Guardian chỉ trích album khi nói rằng "Nếu Eminem nghĩ rằng những mánh khóe bằng lời nói của anh ta có thể khắc phục điểm yếu của bất kỳ bản nhạc đệm nào, thì những album gần đây của anh ta đã chứng minh điều khác." Neil McCormick của The Daily Telegraph tuyên bố rằng Revival "đại diện cho Eminem ở phong độ đỉnh cao, nghĩa là không thể ngăn cản, không thể đánh bại nhưng thường không thể biện hộ được."

The Irish Times kết luận rằng Revival "đáng ngưỡng mộ hơn những sản phẩm trước nhưng không thú vị hơn. Một cơ hội để thoát khỏi sự sụt giảm đã vút qua Eminem. Nó có thể sẽ không bao giờ đến với anh ta."[53] Trong một bài phê bình tổng hợp, Jon Caramanica từ tờ The New York Times nhận xét rằng trong khi album "có lẽ là album hay nhất trong số những album gần đây của anh ấy", anh ấy đã chỉ trích sự thiếu nhận thức rõ ràng của Eminem đối với sự phát triển của âm thanh hip hop nói chung."[54] Trong một bài đánh giá tiêu cực, tờ Consequence of Sound đã cho album xếp hạng "F" và gọi album là "xấu xí, gây khó chịu và không làm hài lòng" và là "một thảm họa".[44]

So sánh Revival với các sản phẩm trước đây của Eminem, Matthew Ismael Ruiz từ tờ Pitchfork tuyên bố rằng "Về mặt tinh thần, Revival không khác gì, đầy những bản ballad bằng piano và các ngôi sao nhạc pop vang lên những góc thương mại cay độc nhất của anh ta. Giá trị gây sốc không phải đến từ những câu nói nhạt nhẽo hay sự hài hước đáng nể của album (mà album có rất nhiều), mà từ những khoảnh khắc mà sự phát triển của con người anh ta rõ ràng nhất". Anh kết luận rằng "Revival là một album muộn khác trong sự nghiệp mà hầu như không thêm gì vào di sản của anh ta."

Trent Clark từ tờ HipHopDX nói rằng "Sự cống hiến của Eminem đối với các mic phá hoại như Robert Mueller không bao giờ có thể bị nghi ngờ nhưng các lựa chọn sản xuất vẫn còn là một bí ẩn. Khi anh ấy không tắm trong các mẫu đá có thể nhìn thấy rõ như Joan Jett và Blackgetts '" I Love Rock' n 'Roll " hoặc The Cranberries ' " Zombie " (trên "Remind Me" hoặc "In Your Head"), anh ấy chủ yếu là hình vuông gắn lời bài hát tăng cường của anh ấy trên các tấm cơ học của dòng nhạc pop lắp ráp. " Anh ấy đã chọn ra "Framed" và "Castle" như những điểm nổi bật: "phần lớn là những lần đọc lại vinh quang trong quá khứ, nơi anh ấy cố gắng hết sức. Trên "Khung hình" được sản xuất một cách thôi miên, Marshall đã đeo mặt nạ khúc côn cầu vì lợi ích của thời xưa và khơi dậy những tưởng tượng giết người mà tốt hơn hay tồi tệ hơn, đặc trưng cho khoảnh khắc vần điệu trong túi nhất của album. Và khi anh lao vào tâm lý bị thay đổi ma túy để nói về tình yêu lớn nhất của mình - cô con gái Haile Jade - DJ Khalil đáng tin cậy bước lên chiếc đĩa trên "Castle" với âm thanh réo rắt của những cây đàn ghita rùng rợn và tiếng trống réo rắt. Khoảnh khắc Eminem cổ điển nhất của album. "[55] Mitch Findlay từ HotNewHipHop đã viết một bài phê bình tương tự và nói: "Cho đến nay, album thân thiện với nhạc pop nhất của Eminem cho đến nay. Trong khi các album trước chỉ đơn thuần tán tỉnh âm thanh, Revival đã mua một chiếc nhẫn và cầu hôn nó. Do đó, nếu bạn là người không tìm thấy niềm vui trong quá trình sản xuất "pop-rap", bạn sẽ không tìm thấy sự an ủi nào ở đây. " Anh ta chỉ ra "Framed", "Castle" và "Arose" là những điểm nổi bật, gọi hai phần sau là "trong số các bản nhạc mạnh nhất của Revival. Về mặt khái niệm và trữ tình, cặp đôi kết thúc tìm thấy Eminem ở dạng xuất sắc và những người hâm mộ lâu năm sẽ không nghi ngờ gì khi trích dẫn hai điều này như những điểm nổi bật của album. "[56]

Về phản ứng của album, Eminem nói: "Tôi nghĩ rằng có những thứ sẽ bị lấy khỏi album này và phản ứng với nó. Có quá nhiều bài hát không? Có quá nhiều tính năng? Có một số bài hát nhất định như "Kết thúc bi thảm" và "Cần tôi" nơi tôi cảm thấy như lời bài hát họ sẽ cho người nghe một giây để thở. Tôi dành rất nhiều thời gian để viết shit mà tôi nghĩ rằng không ai từng có được. "[57] Sau đó, ông nói: "Khi danh sách theo dõi Revival xuống đường ống, nó giống như quá sức, 'Chết tiệt này sẽ là rác rưởi.' Không ai thực sự muốn sai về nó. Tôi không nói mọi người, nhưng nhiều người đã hình thành ý kiến của họ. " Anh ấy cũng nói rằng anh ấy tự hào về album, nói: "Tôi rất tốt với Revival. Mẹ kiếp Bởi vì tôi không thể tạo ra album này [ Kamikaze ] mà không có nó."[58]

Diễn biến thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Revival chạm đến đỉnh UK Albums Chart với 132.000 đơn vị album tương đương, đây là màn ra mắt lớn thứ hai trong năm chỉ sau ÷ của Ed Sheeran và cũng là album thứ tám liên tiếp đứng ở vị trí số 1 của nam rapper.[7] Một tuần sau, vị trị này thuộc về ÷.[59] Tính đến tháng 10 năm 2018, album đã bán được 321.000 đơn vị album tương đương ở Anh.[60]

Revival cũng là album thứ tám liên tiếp của Eminem đứng đầu Billboard 200 của Hoa Kỳ khi ra mắt với 197.000 bản trong số 267.000 đơn vị album tương đương. Kết quả là Eminem trở thành nghệ sĩ âm nhạc đầu tiên có tám sản phẩm liên tiếp ra mắt tại vị trí cao nhất.[61] Tuần tiếp theo, Revival bị Reputation của Taylor Swift đánh bại. Tính đến ngày 23 tháng 9 năm 2018, Revival đã bán được 392.000 bản tại Mỹ.[62]

Album cũng đạt vị trí số 1 tại Úc, đây cũng là lần thứ chín Eminem đứng đầu ARIA Charts.[63] Một tuần sau, kỷ lục này đã bị ÷ phá vỡ.

Năm 2018, Revival xếp thứ 32 trong danh sách các album phổ biến nhất năm trên Billboard 200.[64]

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Phần ghi công được lấy từ Tidal.[65]

STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Walk on Water" (với sự tham gia của Beyoncé)5:04
2."Believe"
5:15
3."Chloraseptic" (với sự tham gia của Phresher)Mr. Porter5:01
4."Untouchable"
  • Eminem
  • Mark Batson
  • Emile Haynie
  • Mr. Porter
6:10
5."River" (với sự tham gia của Ed Sheeran)
Emile Haynie3:41
6."Remind Me (Intro)"
  • Dr. Dre
  • Feemster
  • Lawrence, Jr.
0:26
7."Remind Me"Rick Rubin3:45
8."Revival (Interlude)"
0:51
9."Like Home" (với sự tham gia của Alicia Keys)
4:05
10."Bad Husband" (với sự tham gia của X Ambassadors)
  • Alex da Kid
  • Eminem[a]
4:47
11."Tragic Endings" (với sự tham gia của Skylar Grey)
  • Mathers
  • Hafermann
  • Grant
Alex da Kid4:12
12."Framed"4:13
13."Nowhere Fast" (với sự tham gia của Kehlani)4:24
14."Heat"Rick Rubin4:10
15."Offended"
  • Illa da Producer
  • Eminem[a]
5:20
16."Need Me" (với sự tham gia của P!nk)
  • Mathers
  • Hafermann
  • Jon Ingoldsby
  • Grant
Alex da Kid4:25
17."In Your Head"Scram Jones3:02
18."Castle"
DJ Khalil4:14
19."Arose"Rick Rubin4:34
Tổng thời lượng:77:39
Ghi chú
  • ^[a] biểu thị nhà đồng sản xuất.
  • ^[b] biểu thị nhà sản xuất bổ sung.
  • "Remind Me" có giọng ca của Porter.
  • "Revival (Interthere)" có giọng ca của Alice và Glass Lake.
  • "Offended" có giọng ca của Kent Jones.
  • "Castle" có giọng ca của Liz Coleues.
Ghi công nhạc mẫu
  • "Cloraseptic" chứa các yếu tố của "Its My Thing", được viết bởi Erick Sermon và Parrish Smith và thể hiện bởi EPMD.
  • "Untouchable" chứa nhạc mẫu của "Earache My Eye", được viết bởi Tommy Chong, Gaye Delorme, Richard Marin và được trình diễn bởi Cheech & Chong và "Born to Roll", được viết bởi Duval Clear, Andre Brown, Tyrone Kelsie và Eric McIntosh và thể hiện bởi Masta Ace Incorporated.
  • "Remind Me" chứa nhạc mẫu của "I Love Rock 'n' Roll", được viết bởi Alan Merrill, Jake Hooker và thể hiện bởi Joan Jett và Blackgetts; "Saturday Night", được viết và thể hiện bởi Schoolly D và "Bust a Move", được viết bởi Matt Dike, Luther Rabb, James Walters và Marvin Young và thể hiện bởi Young MC.
  • "Revival (Interlude)" chứa các yếu tố của "Human of the Year", được viết và thể hiện bởi Regina Spektor.
  • "Framed" chứa nhạc mẫu của "Pilgrim", được viết bởi David John Byron và Kenneth William Hensley và thể hiện bởi C&K Vocal.
  • "Heat" chứa nhạc mẫu của "King of Rock", được viết bởi Darryl McDaniels, Joseph Simmons và Larry Smith và thể hiện bởi Run-DMC; "Girls", được viết bởi Adam Horovitz và Rick Rubin và được trình bày bởi Beastie Boys và một phần nhạc mẫu không được ghi công của "Intro (Feel the Heat)" từ bộ phim Boogie Nights, thể hiện bởi John C. ReillyMark Wahlberg.
  • "Offended" chứa nhạc mẫu của "In You (I Found a Love)", được viết bởi Charles Bradley, Thomas Brenneck, David Guy và Leon Michels và thể hiện bởi Charles Bradley.
  • "In Your Head" chứa nhạc mẫu của "Zombie", được viết bởi Dolores O'Riordan và thể hiện bởi The Cranberries.
  • "Arose" chứa các mẫu của "I'm Gonna Love You Just a Little More Baby", được viết và thể hiện bởi Barry White và "The Rose", được viết bởi Amanda McBroom và thể hiện bởi Bette Midler.

Đội ngũ thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn:[66]

Xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Anh Quốc (BPI)[114] Bạch kim 321,000[60]
Áo (IFPI Áo)[115] Vàng 7.500double-dagger
Canada (Music Canada)[116] Bạch kim 80.000double-dagger
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[117] Bạch kim 20.000double-dagger
Đức (BVMI)[118] Vàng 100.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[119] Vàng 500.000double-dagger
Na Uy (IFPI)[120] Bạch kim 20.000*
New Zealand (RMNZ)[121] Vàng 7.500double-dagger
Pháp (SNEP)[122] Bạch kim 100.000double-dagger
Úc (ARIA)[123] Bạch kim 70.000double-dagger
Ý (FIMI)[124] Vàng 25.000double-dagger

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ As of ngày 20 tháng 8 năm 2018, the video had over 47 million views and over 1.2 million likes.[14]
  2. ^ On "Like Home", he says, "This man just praised a statue of General Lee, 'cause; generally hates the black people, degrades Hispanics."[15]
  3. ^ On "Like Home", he says, "Take it back to the Shady National Convention; wish I would have spit on it before I went to shake his hand at the event."[15]
  4. ^ This led BuzzFeed to file a Freedom of Information Act request with the Secret Service to find out if the claim was true. In October 2019, the agency revealed to BuzzFeed that, in response to an email from a TMZ employee pressing the agency to investigate Eminem for his "threatening lyrics" about Ivanka Trump, they had conducted a background check and arranged an interview, in which the interviewers read the verse out loud to Eminem—and he rapped along. The agency subsequently decided against referring the case to a federal prosecutor.[20]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Unterberger, Andrew (ngày 5 tháng 9 năm 2018). “Eminem's Projected 'Kamikaze' Debut Shows What a Surprise Release Can Still Do For a Veteran Artist”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2019.
  2. ^ Bản mẫu:Chú thích website
  3. ^ a b c “EMINEM "Remind Me" – (Radio Date: 06/07/2018)”. radiodate.it. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2018.
  4. ^ “Eminem Finally Reveals 'Revival' Album Release Date”. Billboard. ngày 28 tháng 11 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2017.
  5. ^ “Dr. Dre Is Working On Eminem's New Album”. Rap-Up. ngày 10 tháng 7 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  6. ^ a b “Top 40/M Future Releases – Mainstream Hit Songs Being Released and Their Release Dates”. All Access. ngày 16 tháng 3 năm 2018.
  7. ^ a b White, Jack (ngày 22 tháng 12 năm 2017). “Eminem's Revival becomes his eighth chart-topping album with huge opening week sales”. Official Charts Company. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2017.
  8. ^ Mathers, Marshall. “Don't worry I'm working on an album! Here's something meanwhile”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2017.
  9. ^ “Is Eminem Dropping His New Album 'Success' In January?”. Capital Xtra. ngày 21 tháng 10 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017.
  10. ^ “Eminem New Album 'Success' Release Date, Tracklist Leaked?”. Hall of Fame. ngày 26 tháng 10 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  11. ^ “Back to the UK this August for Reading & Leeds '17!”. ngày 24 tháng 2 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017 – qua Twitter.
  12. ^ “Just added another Europe show! at the @gssfestival on Aug 24th.”. Twitter. ngày 9 tháng 3 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  13. ^ “Eminem new album may release in August; Glasgow, Reading & Leeds 2017 confirmed”. BlastingNews. ngày 11 tháng 3 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2017.
  14. ^ BETNetworks (ngày 10 tháng 10 năm 2017). Eminem Rips Donald Trump In BET Hip Hop Awards Freestyle Cypher. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2017.
  15. ^ a b Saponara, Michael (ngày 15 tháng 12 năm 2017). “Eminem's 8 Most Political Lyrics on 'Revival'. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2019.
  16. ^ Marcin, Tim (ngày 15 tháng 12 năm 2017). “All the anti-Trump references on Eminem's 'Revival'. Newsweek. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019.
  17. ^ Burks, Tosten (ngày 15 tháng 12 năm 2017). “Every Trump Lyric from Eminem's Revival, Ranked”. Spin. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019.
  18. ^ Bruner, Raisa (ngày 11 tháng 10 năm 2017). “Donald Trump and Eminem Weren't Always Enemies. Here's Proof”. Time. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2019.
  19. ^ Darville, Jordan (ngày 31 tháng 8 năm 2018). “Eminem expresses regret for anti-Trump freestyle, claims he was questioned by Secret Service”. The FADER. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2019.
  20. ^ Leopold, Jason (ngày 24 tháng 10 năm 2019). “TMZ Emailed The Secret Service About Eminem's Trump Lyrics. Agents Then Investigated The Rapper”. BuzzFeed News. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2019.
  21. ^ “Look what arrived at the Shady offices today! @Yelawolf TRIAL BY FIRE comes out this Friday 10/27! #cdbaby”. Instagram. ngày 25 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017.
  22. ^ “Are you ready for REVIVAL?”. MyMemory. ngày 27 tháng 10 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017.
  23. ^ “You searched for: atrox rithimus (Latin – English)”. MyMemory. ngày 27 tháng 10 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017.
  24. ^ “Revival”. Detroit Free Press. ngày 22 tháng 10 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2020. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  25. ^ “Here's what happens when you call 1-833-243-8738, the number for Eminem's new album, "REVIVAL". Twitter. ngày 25 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017.
  26. ^ “eminem is performing a new song at the 2017 ema”. mtvema. ngày 10 tháng 11 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2017.
  27. ^ “Instagram post by Dr. Dre • Nov 28, 2017 at 8:05pm UTC”. Instagram. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2017.
  28. ^ “Instagram post by Marshall Mathers • Dec 5, 2017 at 5:32pm UTC”. Instagram.
  29. ^ “EMINEM – Revival Album Art Reveal”.
  30. ^ Mathers, Marshall (ngày 8 tháng 11 năm 2017). “pic.twitter.com/VXgVGHK5TN”. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017 – qua Twitter.
  31. ^ “Eminem Teases Possible New Single Called 'Walk On Water'. Billboard. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017.
  32. ^ b3llydrum (ngày 8 tháng 11 năm 2017). “Sounds like the single will be called Walking on Water. Hell yeah!”. Twitter. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017.
  33. ^ Gillespie, Curtis (ngày 8 tháng 11 năm 2017). “Walk on water- name og 1st track to get released?”. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017 – qua Twitter.
  34. ^ Andrieu, Pierre (ngày 10 tháng 11 năm 2017). “Eminem, Beyoncé release new single "Walk on Water". CBS. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2017.
  35. ^ Madden, Sidney (ngày 10 tháng 11 năm 2017). “Eminem And Beyoncé 'Walk On Water'. NPR. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2017.
  36. ^ “BBC – Radio 1 – Playlist”. BBC Radio 1. ngày 21 tháng 7 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2018.
  37. ^ “Eminem and Kehlani Bring Gun Violence-Themed 'Nowhere Fast' to iHeartRadio Awards After Intro From Parkland Shooting Survivor”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2018.
  38. ^ Espinoza, Joshua (ngày 7 tháng 12 năm 2017). “Eminem Drops New Single "Untouchable" Off Upcoming Album 'Revival'. New York City: Complex Media. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2017.
  39. ^ “Chloraseptic (Remix) [feat. 2 Chainz & PHRESHER] – Single by Eminem on Apple Music”. iTunes. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2018.
  40. ^ “Revival by Eminem reviews”. AnyDecentMusic?. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2017.
  41. ^ “Revival by Eminem Reviews and Tracks”. Metacritic. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2018.
  42. ^ Erlewine, Stephen Thomas. “Revival – Eminem”. AllMusic. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2017.
  43. ^ Modell, Josh (ngày 18 tháng 12 năm 2017). “Won't the real Slim Shady please grow up?”. The A.V. Club. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2017.
  44. ^ a b Weiss, Dan (ngày 18 tháng 12 năm 2017). “Album Review: Eminem Fumbles His Confessions on the Godawful Revival”. Consequence of Sound.
  45. ^ McCormick, Neil (ngày 15 tháng 12 năm 2017). “Eminem: Revival review – Marshall Mathers proves he's still the boss”. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2017.
  46. ^ Needham, Don (ngày 15 tháng 12 năm 2017). “Eminem: Revival review – witless beats and puns in a total rejection of hip-hop”. The Guardian. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2017.
  47. ^ Gill, Andy (ngày 15 tháng 12 năm 2017). “Eminem, Revival review: Political anger from a conflicted poet”. The Independent. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2017.
  48. ^ Bassett, Jordan (ngày 18 tháng 12 năm 2017). “Eminem – 'Revival' Review”. NME. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2017.
  49. ^ Empire, Kitty (ngày 17 tháng 12 năm 2017). “Eminem: Revival review – all woke up and nowhere to go”. The Observer. Truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2017.
  50. ^ Ruiz, Matthew Ismael (ngày 19 tháng 12 năm 2017). “Eminem: Revival”. Pitchfork. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2017.
  51. ^ Weingarten, Christopher (ngày 15 tháng 12 năm 2017). “Eminem 'Revival' Review: Raw, Honest, Compelling as Ever”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2020. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  52. ^ Gersler, Fabian (ngày 18 tháng 12 năm 2017). “Some Critics Are Calling Eminem's 'Revival' One of His Worst Albums Yet”. Highsnobiety. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2019.
  53. ^ Van Nguyen, Dean (ngày 15 tháng 12 năm 2017). “Eminem: Revival review – gruelling, relentless and sterile”. The Irish Times. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2017.
  54. ^ Caramanica, Jon (ngày 18 tháng 12 năm 2017). “Hip-Hop Changes. Eminem Doesn't”. The New York Times. ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2017.
  55. ^ https://hiphopdx.com/reviews/id.3049/title.review-eminems-revival-a-sober-middling-effort-from-a-weathered-legend#
  56. ^ Findley, Mitch (ngày 20 tháng 12 năm 2017). “Eminem "Revival" Review”. HotNewHipHop. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2018.
  57. ^ Rys, Dan (ngày 25 tháng 1 năm 2018). “Eminem and New Def Jam CEO Paul Rosenberg on Early 'Broke Days,' Courting Controversy and Hip-Hop's Future”. Los Angeles, California: Eldridge Industries. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2018.
  58. ^ Eustice, Kyle (ngày 11 tháng 9 năm 2018). “Eminem Tells Sway Calloway Why He Surprised-Dropped "Kamikaze". hiphopdx.com. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2018.
  59. ^ Copsey, Rob (ngày 29 tháng 12 năm 2017). “Ed Sheeran caps off a hugely successful 2017 by claiming a new Official Charts record”. Official Charts Company. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2017.
  60. ^ a b Copsey, Rob (ngày 17 tháng 10 năm 2018). “Eminem's Top 10 biggest albums on the Official Chart”. Official Charts Company. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2018.
  61. ^ a b Caulfield, Keith (ngày 24 tháng 12 năm 2017). “Eminem's 'Revival' Debuts at No. 1 on Billboard 200 Chart, G-Eazy & Jeezy Bow in Top 10”. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2017.
  62. ^ “chart data on Twitter”. Twitter. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2018.
  63. ^ Ryan, Gavin (ngày 25 tháng 12 năm 2017). “Australian Charts: Eminem Revival Is The No 1 Album”. Noise11. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2017.
  64. ^ “Billboard 2018 Year End Charts”. Billboard.
  65. ^ “Revival / Eminem TIDAL”. Tidal. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2018.
  66. ^ Revival (CD liner notes). Eminem. Interscope Records. 2017.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  67. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  68. ^ "Austriancharts.at – Eminem – Revival" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  69. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry.
  70. ^ "Ultratop.be – Eminem – Revival" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  71. ^ "Ultratop.be – Eminem – Revival" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  72. ^ "Portuguesecharts.com – Eminem – Revival" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  73. ^ "Eminem Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  74. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn 201751,52 trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác.
  75. ^ "Danishcharts.dk – Eminem – Revival" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  76. ^ "Offiziellecharts.de – Eminem – Revival" (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts.
  77. ^ “Offizielle Deutsche Charts: Top 20 Hiphop–Charts 22. Dezember 2017” [Official German charts: Top 20 hip hop charts ngày 22 tháng 12 năm 2018] (bằng tiếng Đức). GfK Entertainment Charts. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2018.
  78. ^ "Dutchcharts.nl – Eminem – Revival" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  79. ^ "Eminem: Revival" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland.
  80. ^ "Lescharts.com – Eminem – Revival" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  81. ^ "Eminem Chart History (Top R&B/Hip-Hop Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  82. ^ "Album Top 40 slágerlista – {{{year}}}. {{{week}}}. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ.
  83. ^ “Top-75 Albums Sales Chart”. IFPI Greece. ngày 21 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2018.
  84. ^ "Irish-charts.com – Discography Eminem". Hung Medien.
  85. ^ "Norwegiancharts.com – Eminem – Revival" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  86. ^ "Charts.nz – Eminem – Revival" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  87. ^ “リバイバル” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2018.
  88. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  89. ^ "Spanishcharts.com – Eminem – Revival" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  90. ^ "Swedishcharts.com – Eminem – Revival" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  91. ^ "Swisscharts.com – Eminem – Revival" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  92. ^ "Australiancharts.com – Eminem – Revival" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  93. ^ "Italiancharts.com – Eminem – Revival" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  94. ^ White, Jack (ngày 3 tháng 1 năm 2018). “The Top 40 biggest albums of 2017 on the Official Chart”. Official Charts Company. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2018.
  95. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2017.
  96. ^ “Top de l'année Top Albums 2017” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
  97. ^ “ARIA End of Year Albums 2017”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2018.
  98. ^ “Classifiche annuali dei dischi più venduti e dei singoli più scaricati nel 2017” (bằng tiếng Ý). FIMI. Bản gốc (Click on "Scarica allegato" and open the "Classifica annuale 2017 Album combined" file) lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |= (trợ giúp)
  99. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2018”. Official Charts Company. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2019.
  100. ^ “Ö3 Austria Top 40 Jahrescharts 2018: Longplay”. Ö3 Austria Top 40. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2018.
  101. ^ “Jaaroverzichten 2018”. Ultratop. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2018.
  102. ^ “Rapports Annuels 2018”. Ultratop. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2018.
  103. ^ “Canadian Albums – Year-End 2018”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2018.
  104. ^ “Album Top-100 2018” (bằng tiếng Đan Mạch). Hitlisten. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2019.
  105. ^ “Top 100 Album-Jahrescharts”. GfK Entertainment (bằng tiếng Đức). offiziellecharts.de. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2018.
  106. ^ “Jaaroverzichten – Album 2018” (bằng tiếng Hà Lan). MegaCharts. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2019.
  107. ^ “Billboard 200 Albums – Year-End 2018”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2018.
  108. ^ “Top Selling Albums of 2018”. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2018.
  109. ^ “Top de l'année Top Albums 2018” (bằng tiếng Pháp). SNEP. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2020.
  110. ^ “Årslista Album – År 2018” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2019.
  111. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2018 – hitparade.ch”. Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2018.
  112. ^ “ARIA End of Year Albums 2018”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2019.
  113. ^ “Classifiche Annuali Top of the Music FIMI/GfK 2018: Protagonista La Musica Italiana” (Download the attachment and open the albums file) (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. ngày 7 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2019.
  114. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Eminem – Revival” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2018. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập Revival vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  115. ^ “Chứng nhận album Áo – Eminem – Revival” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2018.
  116. ^ “Chứng nhận album Canada – Eminem – Revival” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2018.
  117. ^ “Chứng nhận album Đan Mạch – Eminem – Revival” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Đan Mạch. Scroll through the page-list below until year 2018 to obtain certification.
  118. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Eminem; 'Revival')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  119. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Eminem – Revival” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2020.
  120. ^ “Chứng nhận album Na Uy – Eminem – Revival” (bằng tiếng Na Uy). IFPI Na Uy. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
  121. ^ “Chứng nhận album New Zealand – Eminem – Revival” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2018.
  122. ^ “Chứng nhận album Pháp – Eminem – Revival” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2020.
  123. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2019 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  124. ^ “Chứng nhận album Ý – Eminem – Revival” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2018. Chọn "2018" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "Revival" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".