Scarus spinus

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Scarus spinus
Cá đực
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Scaridae
Chi (genus)Scarus
Loài (species)S. spinus
Danh pháp hai phần
Scarus spinus
(Kner, 1868)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Pseudoscarus spinus Kner, 1868
  • Callyodon kelloggii Jordan & Seale, 1906

Scarus spinus là một loài cá biển thuộc chi Scarus trong họ Cá mó. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1868.

Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài trong tiếng Latinh có nghĩa là "sắc nhọn như gai", không rõ hàm ý, có lẽ đề cập đến răng nanh của cá đực và cá cái[2].

Phạm vi phân bố và môi trường sống[sửa | sửa mã nguồn]

S. spinus có phạm vi phân bố tập trung ở Tây Thái Bình Dương, thưa vắng hơn ở Đông Ấn Độ Dương (được ghi nhận tại quần đảo Cocos (Keeling), đảo Giáng Sinh và các rạn san hô vòng ngoài khơi Tây Úc). Từ vùng biển Việt Nam, loài này được ghi nhận tại hầu hết các nhóm đảo thuộc khu vực Tam giác San Hô; ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản); trải dài đến một số đảo quốcquần đảo thuộc châu Đại Dương ở phía đông (xa nhất là đến quần đảo Samoa); giới hạn phía nam đến rạn san hô Great Barrier[1].

Môi trường sống của S. spinus là các rạn san hô viền bờrạn san hô trong các đầm phá ở độ sâu đến ít nhất là 25 m[1].

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

S. spinus có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 30 cm[3]. Vây đuôi cụt hoặc hơi tròn ở cá cái, lõm sâu tạo thành hình lưỡi liềm ở cá đực. Cá đực còn có thêm răng nanh ở phía sau phiến răng mỗi hàm, trong khi cá cái chỉ có răng nanh ở hàm dưới[4].

Cá cái có màu nâu xám, ửng đỏ ở bụng, có thể xuất hiện các hàng đốm trắng. Cá đực có màu xanh lục lam, vảy trên thân có các vạch màu hồng tím. Mõm có màu vàng lục; hai bên má có màu vàng; dưới cằm có các vệt màu cá hồi pha hồng[4][5].

Số gai vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 10; Số gai vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 9; Số tia vây ở vây ngực: 13–14[3][4].

Sinh thái học[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của S. spinus chủ yếu là tảo. S. spinus đực có thể sống theo chế độ hậu cung, gồm nhiều con cái cùng sống trong lãnh thổ của nó. Cá cái có khi lẫn vào đàn của những loài cá mó khác[3][6].

S. spinus được đánh bắt làm thực phẩm, chủ yếu được tiêu thụ tại địa phương[1].

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d B. Russell và cộng sự (2012). Scarus spinus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2012: e.T190713A17795871. doi:10.2305/IUCN.UK.2012.RLTS.T190713A17795871.en. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Scharpf, C.; Lazara, K. J. (2021). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (i-x)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Scarus spinus trên FishBase. Phiên bản tháng 10 năm 2021.
  4. ^ a b c John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 355. ISBN 978-0824818951.
  5. ^ R. D. Stuart-Smith; G. J. Edgar; A. J. Green; I. V. Shaw biên tập (2015). Scarus spinus Scaridae”. Reef Life Survey. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2021.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  6. ^ D. R. Bellwood (2001). K. E. Carpenter; V. H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Vol. 6. Bony fishes part 4 (Labridae to Latimeriidae), estuarine crocodiles, sea turtles, sea snakes and marine mammals (PDF). FAO Species Identification Guide for Fishery Purposes. FAO. tr. 3491. ISBN 978-9251045893.