Seohyun

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Seo Ju-hyun)
Seohyun
Seohyun vào năm 2022
SinhSeo Joo-hyun
28 tháng 6, 1991 (32 tuổi)
Doksan-dong, Geumcheon-gu, Seoul, Hàn Quốc
Trường lớpĐại học Dongguk
Nghề nghiệp
Chiều cao170 cm (5 ft 7 in)
Sự nghiệp âm nhạc
Năm hoạt động2007 (2007)–nay
Hãng đĩa
  • SM (2007–2017)
  • Sublime Artist (2017–2018)
  • Namoo Actor (2019–nay)
Hợp tác với
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
서주현
Hanja
Romaja quốc ngữSeo Ju-hyeon
McCune–ReischauerSŏ Chuhyŏn
Hán-ViệtTừ Châu Huyền
Nghệ danh
Hangul
서현
Hanja
徐玄
Romaja quốc ngữSeo-hyeon
McCune–ReischauerSŏhyŏn
Chữ ký

Seo Joo-hyun (Hangul: 서주현, Hanja: 徐朱玄, Hán-Việt: Từ Châu Huyền, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1991), thường được biết đến với nghệ danh Seohyun, là một nữ ca sĩdiễn viên người Hàn Quốc, thành viên nhỏ tuổi nhất nhóm nhạc nữ Girls' Generation. Ngoài hoạt động âm nhạc, cô còn đảm nhận nhiều vai diễn trong nhiều bộ phim truyền hìnhđiện ảnh. Tháng 10 năm 2017, cô rời SM Entertainment để tập trung cho đam mê diễn xuất nhưng vẫn là thành viên của SNSD.

Ngày 7 tháng 3 năm 2019, Seohyun gia nhập Namoo actors công ty quản lý hiện tại với tư cách diễn viên để tập trung cho sự nghiệp diễn xuất.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Seohyun sinh ra tại Seoul, Hàn Quốc và là con một trong gia đình.[1] Mẹ cô là bà Kim Young-ah, một giảng viên piano nên cô đã theo học chơi nhạc cụ này từ năm 5 tuổi, cũng như violin và trống truyền thống của Hàn Quốc trong thời thơ ấu. Cô cũng học cưỡi ngựa và trượt băng khi còn nhỏ. Cha mẹ cô không khuyến khích cô trở thành người nổi tiếng, nhưng Seohyun tin rằng họ là người giúp cô chọn con đường sự nghiệp bằng cách để cô trải nghiệm những điều khác biệt. Năm 2009, bà đã tham gia với vai trò khách mời đặc biệt trong chương trình Kim Jungeun's Chocolate cùng với các thành viên của nhóm Girls' Generation.[2]

Seohyun được nhân viên của công ty SM Entertainment phát hiện khi đang ngồi trên tàu điện ngầm. Năm 2003, cô tham gia thử giọng tại SM Casting System với một ca khúc thiếu nhi và trở thành thực tập sinh vào cùng năm. Seohyun đã trích dẫn các nhóm nhạc BoA, S.E.S và Fin.K.L. như những ảnh hưởng chính của cô để trở thành một ca sĩ. Cô bày tỏ:

"Tôi nghĩ thật tuyệt khi thể hiện và truyền đạt cảm xúc thông qua các bài hát".

Seohyun theo học Trung học Daeyoung sau đó chuyển sang Trung học Nghệ thuật Jeonju và tốt nghiệp vào ngày 9 tháng 2 năm 2010.[3]. Ngày 21 tháng 8 năm 2014, cô tốt nghiệp trường Đại học Dongguk[4][5] và nhận được giải thưởng thành tựu.[6]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

2007–12: Girls' Generation và Girls' Generation-TTS[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 8 năm 2007, Seohyun chính thức ra mắt công chúng với tư cách là thành viên nhóm nhạc nữ Girls' Generation. Năm 2008, cô cùng với các thành viên cùng nhóm JessicaTiffany phát hành hai bài hát "Oppa Nappa" và "It's Fantastic".[7][8] Năm 2009, cô song ca với ca sĩ nhạc trot Joo Hyun-mi trong bài hát "JjaRaJaJja".[9] Bài hát được đề cử ở hạng mục bài hát nhạc trot của năm tại lễ trao giải Mnet Asian Music Awards lần thứ 11.

Seohyun tại lễ trao giải Melon Music Awards 2010

Năm 2010, Seohyun phát hành bài hát solo đầu tiên kể từ khi ra mắt "It's Okay Even If It Hurts", nhạc phim của bộ phim truyền hình cổ trang Kim Soo Ro. Cô cũng cùng thành viên cùng nhóm Taeyeon tham gia lồng tiếng cho phiên bản tiếng Hàn của bộ phim hoạt hình Despicable Me lần lượt trong các vai Margo và Edith.[10]. Từ ngày 11 tháng 2 năm 2010 đến ngày 2 tháng 4 năm 2011, Seohyun và Jung Yong-hwa, thành viên ban nhạc CN Blue, tham gia chương trình truyền hình thực tế We Got Married. Hai người nhận được giải thưởng cặp đôi được yêu thích nhất tại lễ trao giải MBC Entertainment Awards năm 2010. Năm 2011, cô góp mặt trong bài hát "Journey" nằm trong album phòng thu thứ năm Keep Your Head Down của nhóm nhạc nam cùng công ty TVXQ.[11] Cô cũng song ca với Donghae, thành viên nhóm nhạc nam cùng công ty Super Junior, trong bài hát "Dreams Come True" của sự kiện Asia Song Festival năm 2011, một dự án gây quỹ từ thiện của UNICEF.[12]

Tháng 2 năm 2012, Seohyun và các thành viên cùng nhóm TaeyeonTiffany trở thành người dẫn chương trình cho chương trình truyền hình âm nhạc hàng tuần Show! Music Core của đài MBC.[13] Cô cũng góp mặt trong bài hát "Don't Say No" của Yoon Gun, thành viên nhóm nhạc nam Brown Eyes.[14] Tháng 4 năm 2012, cô phát hành bài hát solo "I'll Wait For You", nhạc phim của bộ phim truyền hình Fashion King mà thành viên cùng nhóm Yuri thủ vai chính. Tháng 5 năm 2012, Seohyun trở thành thành viên nhóm nhỏ đầu tiên của Girls' Generation, Girls' Generation-TTS cùng với Taeyeon và Tiffany. Nhóm bắt đầu hoạt động với mini-album đầu tay Twinkle.[15]

2013–2017: Khởi đầu sự nghiệp diễn xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Seohyun trong vở kịch Moon Embracing the Sun

Tháng 1 năm 2013, Seohyun tham gia viết lời cho hai bài hát "Baby Maybe" và "XYZ" nằm trong album phòng thu thứ tư I Got a Boy của Girls' Generation. Tháng 4 năm 2013, Seohyun, TaeyeonTiffany ngừng dẫn chương trình cho Show! Music Core để tập trung cho các hoạt động của Girls' Generation.[16] Tháng 8 năm 2013, cô và Taeyeon tiếp tục tham gia lồng tiếng cho phiên bản tiếng Hàn của Despicable Me 2, phần tiếp theo của Despicable Me.[17] Tháng 9 năm 2013, Seohyun đảm nhận vai phụ Han Yoo-rim, mối tình đầu của nhân vật nam chính, trong bộ phim truyền hình Passionate Love.[18]

Năm 2014, Seohyun viết lời cho bài hát "Only U" nằm trong mini-album thứ hai Holler của Girls' Generation-TTS. Cô cũng xuất hiện lần đầu tiên trên sân khấu kịch trong vở nhạc kịch Moon Embracing the Sun trong vai nữ chính Heo Yeon-woo.[19] Tháng 11 năm 2015, cô đảm nhận vai nữ chính Scarlett O'Hara trong vở nhạc kịch Gone with the Wind.[20] Tháng 12 năm 2015, cô tiếp tục được giao vai nữ chính Sophie Sheridan trong phiên bản tiếng Hàn của vở nhạc kịch Mamma Mia!.[21] Cô cũng viết lời cho phiên bản tiếng Hàn của bài hát chủ đề "Dear Santa" nằm trong mini-album thứ ba của Girls' Generation-TTS.

Seohyun biểu diễn vở nhạc kịch Gone With The Wind năm 2015

Tháng 6 năm 2016, Seohyun đảm nhận vai Irene bên cạnh Chanyeol, thành viên nhóm nhạc nam EXO, và Viên San San trong bộ phim điện ảnh So I Married My Anti-fan.[22] Cô cũng được công bố là sẽ tham gia web drama Trung Quốc Hỏa Bộc Thiên Vương.[23] Tháng 8 năm 2016, Seohyun thủ vai công chúa Woo Hee bên cạnh các diễn viên như Lee Joon-gi, Lee Ji-eunKang Ha-neul trong bộ phim truyền hình cổ trang Moon Lovers: Scarlet Heart Ryeo.[24] Cô cũng cùng thành viên cùng nhóm Yuri phát hành bài hát "Secret" thông qua dự án âm nhạc Station của SM Entertainment nhằm quảng bá cho nhãn hiệu dầu gội đầu Pantene.

Năm 2017, cô tham gia bộ phim Trộm tốt trộm xấu. Nhân vật mà Seohyun đảm nhận sẽ là Kang So Joo, một cảnh sát điều tra đầy nhiệt huyết, sống để theo đuổi công lí. Kang So Joo là một cô gái ấm áp, chu đáo, yêu lẽ phải, bài bất công, luôn đứng về phía những con người bé nhỏ trong xã hội. Cô là bạn thân, người yêu của Jang Dol Mok (Ji Huyn Woo) một tên trộm đẹp trai tháo vát, ban ngày là một quản lý, ban đêm lại là một tên trộm cướp của người giàu chia cho người nghèo.

2017–nay: Ra mắt với tư cách ca sĩ solo và gia nhập công ty mới[sửa | sửa mã nguồn]

Seohyun vào tháng 6 năm 2016

Tháng 1 năm 2017, Seohyun bắt đầu hoạt động với tư cách ca sĩ solo với mini-album đầu tay Don't Say No.[25] Album đạt vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng album của Gaon, còn đĩa đơn cùng tên thì đã giành chiến thắng trên chương trình âm nhạc M! Countdown. Cô cũng thủ vai chính Lee Ruby trong bộ phim truyền hình Ruby Ruby Love. Tháng 2 năm 2017, Seohyun xuất hiện trong chương trình truyền hình thực tế của riêng mình "How's It Like Living Alone" được phát sóng trên OnStyle.[26] Cô cũng sẽ tổ chức concert solo đầu tiên của mình với tên gọi "Love, Still – Seohyun", thuộc chuỗi concert "The Agit" của các nghệ sĩ SM Entertainment, vào cuối tháng 2.[27]

Ngày 9 tháng 10 năm 2017, sau khi kỉ niệm 10 năm ra mắt cùng Girls' Generation, Seohyun và hai thành viên khác của nhóm, Tiffany và Sooyoung, không tiếp tục gia hạn hợp đồng với công ty chủ quản SM Entertainment. Tuy nhiên, ba người vẫn tiếp tục là thành viên của Girls' Generation.[28]

Tháng 4 năm 2018, Seohyun đảm nhận làm MC cho chương trình giao lưu 2 nước Hàn Quốc và Triều Tiên cùng với các nghệ sĩ tên tuổi gạo cuội. Trước đó cô được phía Triều Tiên yêu cầu tham gia biểu diễn với ban nhạc Triều Tiên và đính thân tổng thống Hàn Quốc gọi điện thoại chúc Tết cô. Tháng 5 năm 2018, Seohyun trở lại màn ảnh nhỏ với vai chính trong bộ phim Time. Đây cũng là vai diễn đầu tiên sau khi cô rời SM.[29][30] Tháng 10 năm 2018, cô thông báo đến fan hâm mộ sẽ tổ chức fan meeting ở các nước châu Á: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Ma Cao, Hồng KôngThái Lan. Tháng 12 năm 2018, Seohyun được MBC chọn làm MC chính trong lễ trao giải thưởng cuối năm MBC Drama Awards.

Seohyun vào năm 2019

Tháng 3 năm 2019, Seohyun gia nhập công ty quản lý diễn viên Namoo Actor gồm các diễn viên nổi tiếng như Park Min Young, Lee Jun KiJi Sung.[31] Đến ngày 25 tháng 3, Seohyun hát lại ca khúc "My Friend" nằm trong album của tiền bối Cho Yong Pil. Đến tháng 4, cô tiếp tục đảm nhận vai trò MC của lễ trao giải âm nhạc The Fact Music Award.

Đầu năm 2020, Seohyun xuất hiện trong phim ngắn của JTBC mang tên Hello Decurlla trong vai một nhân vật đồng tính nữ.[32][33] Tháng 5 năm 2020, cô đảm nhận vai chính trong bộ phim Private Lives của đài JTBC. Đây là bộ phim truyền hình dài tập đầu tiên của cô sau 2 năm vắng bóng. Tháng 12, cô xác nhận sẽ tiếp tục làm MC cho The Fact Music Award. Đây là lần thứ 3 cô được mời và đảm nhận vị trí này.[34][35]

Tháng 2 năm 2022, Seohyun thủ vai nữ chính trong bộ phim điện ảnh Love and Leashes của Netflix được dựa trên webtoon Moral Sense.[36] Vai diễn đã mang lại cho cô đề cử Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất (phim điện ảnh) tại lễ trao giải Baeksang Arts Awards lần thứ 58.[37][38] Sắp tới, Seohyun sẽ thủ vai chính trong bộ phim điện ảnh Holy Night: Demon Hunters,[39] bộ phim truyền hình Jinxed at First của đài KBS,[40][41] và bộ phim truyền hình Song of the Bandits của Netflix.[42]

Tháng 8/2022, Seohuyn có màn tái xuất đình đám với SNSD với album Forever 1, album đánh dấu chặng đường 15 năm hoạt động âm nhạc của nhóm trong làng giải trí. Tham gia show thực tế Soshi TamTam - đây được xem là màn khởi động trong chuỗi những sự kiện đánh dấu cột mốc kỷ niệm 15 năm ra mắt SNSD.

Hoạt động từ thiện[sửa | sửa mã nguồn]

Seohyun quyên góp cho quỹ học bổng của trường Đại học Dongguk vào tháng 11 năm 2013

Năm 2010, Seohyun được Sở Giáo dục Seoul bổ nhiệm làm đại sứ thiện chí của một chiến dịch khuyến khích học sinh, sinh viên tập thể dục.[43] Năm 2011, cô trở thành đại sứ của UNICEF sau những hoạt động của mình với dự án giúp đỡ trẻ em ở châu Phi của tổ chức này.[44] Cho đến năm 2011, Seohyun đã gọi cựu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki-moon là người cố vấn cuộc sống và là hình mẫu của cô, nói rằng cuốn sách của ông, vào một thời điểm, đã giúp cô chịu đựng những thời điểm khó khăn. Năm 2012, cô được bổ nhiệm làm đại sứ thiện chí của triển lãm quốc tế Expo 2012 do Liên Hợp Quốc tổ chức tại thành phố Yeosu, Hàn Quốc[45]

Tháng 11 năm 2013, nhằm hỗ trợ những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, Seohyun đã quyên góp 100 triệu won vào quỹ học bổng của trường Đại học Dongguk.

Năm 2014, cô tham gia buỗi diễn từ thiện "Happy Day" và quyên góp một số vật dụng cá nhân của mình nhằm gây quỹ để giúp đỡ trẻ em tị nạn Syria.[46]

Năm 2017, cô được chọn là Đại sứ Happy Alliance.

Năm 2018, Seohyun được chọn là Đại sứ quan hệ công chúng giáo dục thống nhất và cô cũng được bổ nhiệm làm Đại sứ danh dự cho đảo Jeju và hội chợ triển lãm quốc tế Citrus Jeju năm 2018.

Ngày 4 tháng 4 năm 2018, tổ chức Seungil Hope Foundation, một tổ chức được thành lập nhằm giúp đỡ những bệnh nhận bị hội chứng Xơ cứng teo cơ một bên (ALS), đăng thông báo trên blog của mình về việc Seohyun đã ủng hộ 40 triệu won cho tổ chức này.[47]

Tháng 4 năm 2019, Seohyun đã sử dụng tên thật của mình để bí mật ủng hộ 10 triệu won nhằm hỗ trợ các nạn nhân trong vụ cháy ở Sokcho.[48]

Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách phim[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Phim Năm Vai Ghi chú Chú thích
Despicable Me 2010 Edith (lồng tiếng) Thuyết minh tiếng Hàn
I AM. – SM Town Live World Tour in Madison Square Garden 2012 Chính mình Phim tài liệu về SM Town [49]
Despicable Me 2 2013 Edith (lồng tiếng) Thuyết minh tiếng Hàn
My Brilliant Life 2014 Chính mình Khách mời [50]
SM Town the Stage 2015 Chính mình Phim tài liệu về SM Town [51]
So I Married My Anti-fan 2016 In-hyong Vai nữ thứ chính
Tình yêu và trói buộc 2022 Jung Ji-woo Vai nữ chính Phim gốc Netflix

Phim truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Phim Năm Kênh Vai Ghi chú Chú thích
Kimcheed Radish Cubes 2007 MBC Chính mình Khách mời
Unstoppable Marriage 2008 KBS Công chúa Bulgwang-dong Khách mời
Passionate Love 2013 SBS Han Yoo-rim Vai phụ [52]
The Producers 2015 KBS Chính mình Khách mời; tập 1 [53]
Warm and Cozy MBC Hwang Yura Khách mời [54]
Scarlet Heart: Ryeo 2016 SBS Woo Hee Vai phụ
Weightlifting Fairy Kim Bok Joo MBC Hwan-hee Khách mời
Ruby Ruby Love 2017 OnStyle Lee Ruby Vai chính
Hỏa Bộc Thiên Vương Vai chính [23]
Trộm tốt, Trộm xấu 2017 MBC Kang Soju Vai chính
Thời gian còn lại 2018 MBC Seol Ji Hyun Vai chính
Xin chào Dracula 2020 JTBC Ji Anna Vai chính
Đời tư JTBC, Netflix Cha Joo-eun Vai chính
Người tình của Jinx 2022 KBS2 Seon Seul-bi Vai chính

Chương trình truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

Title Năm Network Vai diễn Notes
We Got Married (Season 2)
2010–11
MBC Nhân vật chính Với Yonghwa
Show! Music Core 2012–13 MBC Dẫn chương trình Với TaeyeonTiffany
King of Mask Singer
2017
MBC Thí sinh Bí danh "New Year New Bride Cackle" (tập 95–96)[55]
What's It Like Living Alone OnStyle Dẫn chương trình

Sân khấu kịch[sửa | sửa mã nguồn]

Vở kịch Năm Vai Ghi chú
Moon Embracing the Sun 2014 Heo Yeon-woo Vai chính
Gone with the Wind 2015 Scarlett O'Hara Vai chính[20]
Mamma Mia! 2016 Sophie Vai chính

Giải thưởng và đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

Năm Giải thưởng Hạng mục Được đề cử Kết quả
2009 2009 Mnet Asian Music Awards Trot Music of the Year (cùng với Joo Hyun-MiDavichi) "Jjarajajja" Đề cử
2010 South Korea Ministry of Culture Recognition Award[56] Chính mình Đoạt giải
MBC Entertainment Awards 2010 Cặp đôi được yêu thích nhất (với Jung Yong-hwa)[57] We Got Married Đoạt giải
2011 Mnet 20's Choice Awards Hot Campus Goddess Chính mình Đề cử
Mnet Media Awards Most Cute and Gorgeous Lady[58] Đề cử
2013 Seoul International Drama Awards Bài hát nhạc phim truyền hình xuất sắc nhất[59] "I'll Wait for You" Đề cử
2016 SBS Drama Awards Special Acting Moon Lover Scarlet Heart Ryeo Đoạt giải
2017 MBC Drama Awards Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất Bad thief, good thief Đoạt giải
2017 SOOMPI Awards Best web series Ruby Ruby love Đoạt giải
2017 The Seoul Awards The winners of the popularity awards Đoạt giải
2018 MBC Drama Awards Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Time Đề cử

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Mark Russell (ngày 29 tháng 4 năm 2014). K-Pop Now!: The Korean Music Revolution. Tuttle Publishing. tr. 72. ISBN 978-1-4629-1411-1.
  2. ^ 'Dear Mom': A Peek Into Girls' Generation And Their Mothers”. kpopstarz.com (bằng tiếng Anh). ngày 12 tháng 5 năm 2013.
  3. ^ Seohyun graduates from high school on February 9 "All Girls' Generation members are now 20+" (in Korean) Star.mt.co.kr (ngày 12 tháng 1 năm 2010). Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2014.
  4. ^ Kim, Hyeong-wu (5 tháng 2 năm 2010). “소녀시대 서현 졸업사진 공개 화제 '청순 풋풋 매력발산'. Newsen (bằng tiếng Hàn). Truy cập 26 tháng 2 năm 2010.
  5. ^ Kim, Ji-yeon. (tiếng Hàn) '입학' 서현 "대학생활 열심히..좋은 추억만들고파" ("Admission" Seohyun: "I Will Study Hard in University...and Wish to Make Many Memories"). SPN Daily/Money Today. 23 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2010.
  6. ^ “Girls' Generation's Seohyun to receive an Achievement Award at Dongguk University's Graduation Ceremony”. Osen.mt.co.kr (bằng tiếng Hàn). ngày 20 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2014.
  7. ^ Kim Hyeong-wu (ngày 16 tháng 2 năm 2009). “소녀시대 티파니 "'오빠나빠' 활동 당시 성대결절 고생". JoongAng Ilbo (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2010.
  8. ^ “Girls' Generation Jessica, Tiffany and Seohyun released a game theme song”. Newsen.com (bằng tiếng Hàn). ngày 1 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2014.
  9. ^ “주현미 -소녀시대, 트로트 싱글 `짜라자짜` 발표”. Korea Economic Daily (bằng tiếng tiếng Hàn). ngày 16 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2010.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  10. ^ “Girls' Generation's Taeyeon and Seohyun cast as voice actors for Despicable Me. Newsen.com (bằng tiếng Hàn). ngày 17 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2010.
  11. ^ “소시 서현, 2인 동방신기 도우미로..신곡 피처링”. Daum (bằng tiếng Hàn). ngày 11 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2010.
  12. ^ "Music and charity as Asia Song Fest wraps up its eighth year". Joongang Daily (bằng tiếng Hàn). ngày 17 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  13. ^ “Taeyeon and Seohyun to join Tiffany as new 'Music Core' MCs”. llkpop.com (bằng tiếng Anh). ngày 31 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2014.
  14. ^ “Yoon Gun and Girls' Generation Seohyun to Release Duet Single "Don't Say No" on February 13”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  15. ^ “Subgroup "TTS", formed by Girls' Generation's Taeyeon, Tiffany & Seohyun, debuts in May”. Daum.net (bằng tiếng Hàn). ngày 19 tháng 4 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2012.
  16. ^ “Taeyeon, Tiffany, and Seohyun give their farewell greetings on 'Music Core'. allkpop.com (bằng tiếng Anh). ngày 13 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2014.
  17. ^ “Girls Generation Taeyeon and Seohyun to throw first pitch”. BNTNews.co.uk (bằng tiếng Hàn). ngày 28 tháng 8 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2015.
  18. ^ “Leading lineup of SBS drama 'Passionate Love' confirmed”. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 27 tháng 8 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2013.
  19. ^ “슈주 규현-소시 서현 '해를 품은 달'이 되다”. news.hankooki.com (bằng tiếng Hàn). ngày 26 tháng 11 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  20. ^ a b “Seohyun to star in first Korean Gone with the Wind musical”. MSN. ngày 10 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2014.
  21. ^ “Seohyun lands the lead role in musical 'Mamma Mia!'. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  22. ^ “EXO's Chanyeol and Girls' Generation's Seohyun get close in stills for upcoming movie 'So I Married an Anti-Fan'. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 11 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  23. ^ a b Park Pan-seok (ngày 20 tháng 6 năm 2016). “서현 측 "중국 웹드라마 '화폭천왕', 여주인공 최종 조율중". Osen (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2016.
  24. ^ “Girls' Generation's Seohyun and actress Kang Han Na confirmed for drama 'Moon Lovers'. allkpop (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2016.
  25. ^ Herman, Tamar (ngày 17 tháng 1 năm 2017). “Girls' Generation's Seohyun Goes Solo With 'Don't Say No' EP”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2017.
  26. ^ Lim Jeong-yeo (ngày 3 tháng 1 năm 2017). “SNSD Seohyun to debut solo”. Kpop Herald. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2017.
  27. ^ “서현, 첫 솔로 콘서트 'Love, Still-Seohyun' 2월 개최...'한 편의 영화' 같은 공연”. Seoul Economic Daily (bằng tiếng Hàn). ngày 18 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2017.
  28. ^ “티파니·수영·서현, SM 떠난다…"소녀시대 해체는 안해" [Tiffany, Sooyoung and Seohyun leave SM... "Girls' Generation will not disband"] (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2017.
  29. ^ “Seo-hyun Lands Another Lead Role in New TV Series”. The Chosun Ilbo. 12 tháng 5 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2018.
  30. ^ “Seo Ju-hyun delves into her darker side: Girls' Generation member becomes an 'iron lady' after hard times”. Korea JoongAng Daily. 15 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2018.
  31. ^ “소녀시대 서현, 새 소속사 찾았다..나무엑터스行”. Newsen. 7 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2019.
  32. ^ “김하연 기자 - [스타NOW] 소녀시대 서현, "'안녕 드라큘라' 외 차기작은 NO…재충전의 시간" [Star Now] Girls' Generation Seohyun, "other than the projected shooting of 'Hello Dracula' this is a time to recharge my batteries". 톱스타뉴스 (bằng tiếng Hàn). 6 tháng 2 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2020.
  33. ^ Choi, Ji-won (14 tháng 2 năm 2020). “Seohyun to face her deepest pain in 'Hello, Dracula'. The Korea Herald. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2020.
  34. ^ “Private Lives”. Netflix. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  35. ^ “Seohyun, Go Kyung Pyo and Kim Hyo Jin confirm to star in new JTBC drama”. JTBC Plus. 21 tháng 2 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2020.
  36. ^ Mariel Abanes (23 tháng 3 năm 2021). “Girls' Generation's Seohyun to star in an upcoming Netflix film”. NME. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2021.
  37. ^ Hyo-Jeong Yoon (11 tháng 4 năm 2022). “58회 백상예술대상 5월6일 개최” [58th Baeksang Arts Awards held on May 6th]. Naver (bằng tiếng Hàn). News 1. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2022.
  38. ^ Ahn Byung-gil (11 tháng 4 năm 2022). “58회 백상예술대상 후보 공개…영광의 주인공은?” [58th Baeksang Arts Awards nominations revealed... Who is the hero of glory?] (bằng tiếng Hàn). Sports Kyunghyang. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2022 – qua Naver.
  39. ^ Kim Ji-eun (29 tháng 6 năm 2021). “마동석 주연·제작 '거룩한 밤:데몬 헌터스' 크랭크인” [Ma Dong-seok starring and produced 'Holy Night: Demon Hunters' crank-in]. Newsis (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2021.
  40. ^ Lee, Kyung-ho (1 tháng 7 năm 2021). “[단독]서현, 나인우와 '징크스의 연인' 이끈다..여주인공 발탁”. Star News (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2021.
  41. ^ Kim Hye-young (10 tháng 8 năm 2021). “서현-나인우, 판타지 로맨스 '징크스의 연인' 출연 확정” [Seohyun-Ninewoo Confirmed to Star in Fantasy Romance 'Jinx's Lover']. iMBC (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2021.
  42. ^ Park Soo-in (14 tháng 3 năm 2022). “김남길 서현 유재명 이현욱 이호정 '도적: 칼의 소리' 출연 확정” [Kim Nam-gil, Seo-hyeon, Yoo Jae-myung, Lee Hyun-wook, Lee Ho-jeong, confirmed to appear in ‘The Thief: The Sound of the Sword’] (bằng tiếng Hàn). Newsen. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2022 – qua Naver.
  43. ^ “박태환ㆍ서현 `서울학생 체력증진' 홍보대사”. Yonhap News (bằng tiếng Hàn). ngày 13 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
  44. ^ “Photos from Seohyun and Donghae's 'UNICEF' envoy inauguration ceremony”. allkpop (bằng tiếng Anh).
  45. ^ “소녀시대 서현, 2012 여수 엑스포 유엔관 홍보대사”. asiatoday.co.kr (bằng tiếng Hàn). ngày 3 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2014.
  46. ^ “소녀시대 서현, 시리아 난민위해 애장품 기증 '개념돌'. media.daum.net (bằng tiếng Hàn). ngày 21 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2014.
  47. ^ 박세연 (4 tháng 4 năm 2018). “서현, 승일희망재단에 1천만원 또 기부…숨은 '선행천사'. 스타투데이.
  48. ^ 강효진 (9 tháng 4 năm 2019). “[단독]소녀시대 서현, 강원도 산불 피해에 1000만원 기부”. 스포티비뉴스.
  49. ^ “Documentary Shows Top K-Pop Singers Behind the Scenes”. Chosun Ilbo. ngày 2 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2012.
  50. ^ TaeTiSeo makes a cameo appearance in Kang Dong Won's movie My Brilliant Life (in Korean) Hankooki.com (ngày 21 tháng 8 năm 2014). Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2014.
  51. ^ (tiếng Hàn) 'SM타운' 공연실황 다큐, 8월13일 국내개봉 확정
  52. ^ Oh, Jean (ngày 24 tháng 9 năm 2013). “Girls' Generation's Seohyun makes acting debut”. Korea Herald. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2015.
  53. ^ Yoon, Sarah (ngày 14 tháng 5 năm 2015). “SNSD to appear in Kim Soo-hyun's drama 'The Producers'. Kpop Herald. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2015.
  54. ^ '맨도롱 또똣' 서현, 꽃미소 날리며 등장...진영, 홀딱 반했다”. The Chosun Ilbo. ngày 24 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2015.
  55. ^ Song Yoon-jeong (ngày 29 tháng 1 năm 2017). '복면가왕' 서현, 폭풍 가창력으로 뮤지컬 '아이다' 완벽 재현”. Asia Economic Daily (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
  56. ^ “Ministry of Culture award”. SONEms. ngày 13 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2012.
  57. ^ “Yoo Jae Suk wins Daesand Adam and Khuntoria couples also win at the MBC Entertainment Awards”. allkpop. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2011.
  58. ^ “Mnet Media Awards 2011 nominees has just been released”. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2011.
  59. ^ “서울드라마어워즈 2013 한류 드라마부문”. Daum. tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2015.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]