Sharafuddin của Selangor

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Sharafuddin Idris Shah
Sultan của Selangor
Tại vị22 tháng 11 năm 2001 – nay
22 năm, 150 ngày
Đăng quang9 tháng 3 năm 2003
Tiền nhiệmSalahuddin Abdul Aziz Shah
Thông tin chung
Sinh24 tháng 12, 1945 (78 tuổi)
Klang, Selangor
Phối ngẫuRaja Zarina Raja Zainal (kh. 1968, lh. 1986)
Nur Lisa Idris Abdullah (kh. 1988, lh. 1997)
Hậu duệTengku Zerafina
Tengku Zatashah
Tengku Amir Shah
Thân phụSultan Salahuddin Abdul Aziz Shah
Thân mẫuRaja Saidatul Ihsan Tengku Badar Shah

Sharafuddin Idris ShahSultan (quân chủ) thứ chín và đương nhiệm của Selangor. Ông đăng cơ vào ngày 22 tháng 11 năm 2001, kế vị cha là Sultan Salahuddin Abdul Aziz Shah.

Sinh hoạt ban đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Tengku Idris Shah[1] sinh ngày 24 tháng 12 năm 1945 tại Istana Jema'ah, Klang, là con trai đầu của Raja Muda (thế tử) của Selangor, Tengku Abdul Aziz Shah và người vợ đầu là Raja Saidatul Ihsan Tengku Badar Shah (1923–2011).[2][3] Cha ông là con trưởng của Sultan Hisamuddin Alam Shah và Raja Jemaah Raja Ahmad, họ là Yang di-Pertuan AgongRaja Permaisuri Agong nhiệm kỳ thứ hai của Malaysia. Mẹ của ông là cháu của Sultan Alaeddin Sulaiman ShahSultan Abdul Jalil Shah của Perak.[4] Do vậy, cha mẹ của ông là anh em họ trong phạm vi ba đời.

Ông bắt đầu học tập tại trường tiểu học Mã Lai ngữ tại Kuala Lumpur vào năm 9 tuổi, rồi theo học tại Học viện St. John's cho đến năm 1959.[2]

Năm 1960, cha của ông trở thành Sultan của Selangor, hiệu là Sultan Salahuddin Abdul Aziz Shah. Trong cùng năm, Tengku Idris được tuyên bố là Raja Muda (thế tử) của Selangor; lễ phong của ông diễn ra mười năm sau đó. Ông được gửi ra nước ngoài để tiếp tục học tập, theo học tại trường Hale tại Perth, Úc, từ năm 1960 và sau đó học tại Học viện Langhurst tại Surrey, Anh Quốc từ năm 1964.[2]

Sau khi trở về từ Anh Quốc, Tengku Idris tham gia phụng sự chính phủ, trong Ban thư ký bang Selangor dưới quyền Thống đốc Harun Idris. Ông phụng sự trong Văn phòng khu vực và sở cảnh sát Kuala Lumpur.[2]

Ngày 24 tháng 4 năm 1999, ông được bổ nhiệm làm nhiếp chính của Selangor sau khi cha ông trở thành Yang di-Pertuan Agong.[2]

Sultan của Selangor[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 22 tháng 11 năm 2001, Tengku Idris được tuyên bố là Sultan của Selangor, kế vị người cha từ trần.[5] Ông lấy tôn hiệu là Sharafuddin, và có tước Sultan Sharafuddin Idris Shah.[1] Ông chính thức đăng cơ vào ngày 9 tháng 3 năm 2003 tại Istana Alam Shah, Klang.[6]

Trong vai trò Sultan, ông nổi tiếng do thu hồi các vinh dự cấp bang mà ông hoặc cha ông từng ban tặng. Năm 2007, ông thu hồi tước "Datuk" của một doanh nhân bị buộc tội gian lận tài chính. Ông cũng đình chỉ các vinh dự khác của những người bị tòa án buộc tội bất chính hoặc đối diện với phá sản.[7] Năm 2011, ông đình chỉ tước "Datuk" của cựu bộ trưởng giao thông Chan Kong Choy (Trần Nghiễm Tài) do nhân vật này bị tòa án buộc tội có trách nhiệm trong sự kiện bê bối khu tự do cảng Klang.[8]

Tổng tuyển cử năm 2008 dẫn đến biến hóa chính trị phổ quát tại Selangor, lần đầu tiên Barisan Nasional (Mặt trận Dân tộc) không kiểm soát nghị viện cấp bang. Sharafuddin chủ trì lễ tuyên thệ nhậm chức của Thống đốc Selangor đầu tiên không phải là thành viên Mặt trận Dân tộc.[9]

Trong tháng 5 năm 2009, ông trải qua 10 giờ phẫu thuật tim hở tại Trung tâm y khoa Đại học Stanford tại Palo Alto, California, Hoa Kỳ.[10]

Đầu năm 2011, ông bị kéo vào một cuộc khủng hoảng về việc bổ nhiệm bang vụ khanh, công chức dân sự cấp cao nhất trong bang. Chính phủ liên bang bổ nhiệm Mohd Khusrin Munawi vào vị trí này, Sharafuddin tán thành điều này.[11] Tuy nhiên, chính phủ bang do Pakatan Rakyat lãnh đạo phản đối việc bổ nhiệm.[12] Chính phủ bang cuối cùng nhượng bộ, và Khusrin nhận nhiệm vụ trong tháng 2 năm 2011.[11]

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Sharafuddin kết hôn hai lần, và hiện đều đã ly hôn. Ông đăng cơ và trị vì mà không có phi tần.

Năm 1968, khi còn là Tengku Idris, ông kết hôn với Raja Zarina Raja Tan Sri Zainal. Hôn nhân kết thúc bằng ly hôn vào năm 1986. Sharafuddin và Raja Zarina có hai con:[1]

  • Tengku Zerafina (sinh năm 1969), hiện là doanh nhân tại London.[13] Bà kết hôn với Colin Salem Parbury vào ngày 5 tháng 12 năm 2004.
  • Tengku Zatashah (sinh năm 1973), hiện là một ủy viên quản trị tại Paris. Bà kết hôn với Aubry Rahim Mennesson (sinh năm 1972) vào ngày 28 tháng 2 năm 2008 tại Istana Alam Shah, Klang.[14]

Năm 1988, Tengku Idris kết hôn với một người sinh tại Mỹ tên là Nur Lisa Idris Abdullah (nguyên danh Lisa Davis). Họ ly hôn vào năm 1997 và có một con chung:[1]

Sở thích[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 30 tuổi, ông leo núi Kinabalu.[5][15] Trước khi trở thành Sultan, Sharafuddin là một thủy thủ có khát vọng, và năm 1995, ông đi vòng quanh thế giới bằng du thuyền SY Jugra của mình, hành trình diễn ra trong 22 tháng.[15] Ông bán du thuyền trước khi trở thành Sultan.[5] Raja Muda Selangor International Regatta là một sự kiện đua thuyền thường niên, giải được đặt theo tên ông.[5]

Ông tham gia và hoàn thành giải đua ô tô Bắc Kinh-Paris bằng chiếc 1932 Ford Model B của mình.[5] Ông đi được 16.000 km trong 43 ngày, giành huy chương bạc hạng xe cổ.[15] Năm 1986, ông lái một chiếc Proton Saga từ Kota Kinabalu đến Kuching trên đảo Borneo, đi được 1.111 km trong hai ngày.[5]

Tước hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Tước hiệu đầy đủ của Sharafuddin là: Duli Yang Maha Mulia Sultan Sharafuddin Idris Shah Alhaj ibni Almarhum Sultan Salahuddin Abdul Aziz Shah Alhaj, Sultan of the State of Selangor and All Its Dependencies.[16]

Tổ tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d “Biodata Sultan Sharafuddin Idris Shah”. Agong mangkat (bằng tiếng Malayalam). Utusan Malaysia. ngày 22 tháng 11 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  2. ^ a b c d e “Life's a simple and beautiful journey, says Sultan”. Sultan of Selangor's Birthday. New Straits Times. ngày 11 tháng 12 năm 2002. tr. 6–8. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  3. ^ “Selangor Sultan's mother dies”. The Star (Malaysia). ngày 31 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2021. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  4. ^ “Selangor”. Genealogical Gleanings. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  5. ^ a b c d e f Kee, Hua Chee (ngày 8 tháng 3 năm 2003). “Fulfilling a Ruler's destiny”. The Star (Malaysia). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2021. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  6. ^ “State to reach greater heights”. The Star (Malaysia). ngày 9 tháng 3 năm 2003. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  7. ^ “Selangor Sultan strips trader of title”. New Straits Times. ngày 9 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  8. ^ “Ex-minister and bankrupt lose Selangor titles”. The Star (Malaysia). ngày 11 tháng 4 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  9. ^ “Khalid Ibrahim sworn-in as new Selangor Mentri Besar”. The New Straits Times. ngày 13 tháng 3 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2008.
  10. ^ “Sultan Selangor Stabil Selepas Pembedahan Jantung”. Bernama. ngày 3 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  11. ^ a b A. Ruban (ngày 17 tháng 2 năm 2011). “Khusrin takes his oath at last”. The Star (Malaysia). Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  12. ^ Shazwan Mustafa Kamal (ngày 6 tháng 1 năm 2011). “Selangor Sultan maintains Khusrin's appointment lawful”. The Malaysian Insider. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  13. ^ “The Sultan, my father”. The Star (Malaysia). ngày 8 tháng 3 năm 2003. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  14. ^ Chan, Jade (ngày 28 tháng 2 năm 2008). “A wedding reception befitting a princess”. The Star (Malaysia). Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  15. ^ a b c “The Sultan, sailing and the sea”. Sultan of Selangor's Birthday. New Straits Times. ngày 11 tháng 12 năm 2002. tr. 10–13. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.
  16. ^ “May Allah The Almighty Bless Our Sultan”. New Straits Times. ngày 22 tháng 12 năm 2001. tr. 3. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2011.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Tước hiệu
Tiền nhiệm
Sultan Salahuddin Abdul Aziz Shah
Sultan của Selangor
2001 – nay
Đương nhiệm
Người thừa kế:
Tengku Amir Shah