Somers (lớp tàu khu trục)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục Somers, chiếc dẫn đầu của lớp
Khái quát lớp tàu
Tên gọi Lớp tàu khu trục Somers
Xưởng đóng tàu
Bên khai thác Hải quân Hoa Kỳ
Lớp trước lớp Bagley
Lớp sau lớp Benham
Thời gian đóng tàu 1935-1939
Thời gian hoạt động 1937-1945
Hoàn thành 5
Bị mất 1
Nghỉ hưu 4
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàu Tàu khu trục
Trọng tải choán nước
  • 1.850 tấn Anh (1.880 t) (tiêu chuẩn)
  • 2.130 tấn Anh (2.160 t) (đầy tải)
Chiều dài 381 ft (116 m)
Sườn ngang 36 ft 2 in (11,02 m)
Mớn nước 10 ft 4 in (3,15 m)
Động cơ đẩy
Tốc độ 36 hải lý trên giờ (67 km/h; 41 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 16 sĩ quan,
  • 278 thủy thủ
Vũ khí

Lớp tàu khu trục Somers là một lớp tàu khu trục gồm năm chiếc, có trọng lượng choán nước 1.850 tấn được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn giữa Chiến tranh Thế giới thứ nhấtthứ hai.

Đặc điểm thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Căn bản dựa trên lớp tàu khu trục Porter, Somers là sự đáp trả lại các tàu khu trục lớn mà Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào lúc đó, và thoạt tiên dự định đảm nhiệm vai trò soái hạm của chi hạm đội khu trục. Lớp tàu này tích hợp một công nghệ còn gây tranh cãi (vào lúc đó): nồi hơi siêu nhiệt bao bọc bởi hơi, được cải biến từ kiểu trang bị cho thiết giáp hạm New Mexico (BB-40) được hiện đại hóa. Đây là lớp tàu khu trục Hoa Kỳ đầu tiên sử dụng hơi nước siêu nhiệt với áp suất 600 pound trên inch vuông (4.100 kPa) ở nhiệt độ lên đến 850 °F (454 °C), vốn trở thành tiêu chuẩn cho mọi tàu chiến Hoa Kỳ được chế tạo vào cuối những năm 1930 và trong Thế Chiến II. Cho dù có trọng lượng nặng hơn, nồi hơi mới cho phép sử dụng chỉ một ống khói duy nhất cho hệ thống động lực, lấy chỗ để trang bị thêm một dàn ống phóng ngư lôi thứ ba trên trục giữa. Ngay cả như thế, chúng cũng bị quá tải và nặng bên trên.

Giống như lớp Porter, chúng nguyên được chế tạo với tám khẩu pháo 5 in (130 mm)/38 caliber trên bốn bệ Mark 22 nòng đôi đơn dụng (chống hạm).[1] Việc phòng không được đảm nhiệm bởi hai khẩu đội pháo 1,1 inch/75 caliber phòng không bốn nòng và bốn súng máy M2 Browning. Cũng như lớp Porter, dàn pháo chính của lớp Somers dần dần được giảm bớt trong Thế Chiến II, thay bằng các bệ lưỡng dụng, và vũ khí phòng không được thay thế bởi các kiểu pháo Bofors 40 mmOerlikon 20 mm.

Hai chiếc đầu tiên được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Federal Shipbuilding and Drydock CompanyKearny, New Jersey vào năm 1935; ba chiếc tiếp theo sau đặt lườn vào năm 1936 bởi hãng Bath Iron Works Corporation ở Bath, Maine. Chúng được đưa vào hoạt động từ năm 1937 đến năm 1939 và đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Warrington bị đắm trong một cơn bão tại vùng biển Caribe. Những chiếc khác sống sót qua chiến tranh và bị tháo dỡ vào năm 1946.

Những chiếc trong lớp[sửa | sửa mã nguồn]

Tàu Đặt lườn Hạ thủy Hoạt động Số phận
Somers 27 tháng 6 năm 1935 13 tháng 3 năm 1937 1 tháng 12 năm 1937 Bán để tháo dỡ, 16 tháng 5 năm 1947
Warrington 10 tháng 10 năm 1935 15 tháng 5 năm 1937 9 tháng 2 năm 1938 Đắm trong một cơn bão tại Bahamas, 13 tháng 9 năm 1944
Sampson 8 tháng 4 năm 1936 16 tháng 4 năm 1938 19 tháng 8 năm 1938 Bán để tháo dỡ 29 tháng 3 năm 1946
Davis 28 tháng 7 năm 1936 30 tháng 7 năm 1938 9 tháng 11 năm 1938 Bán để tháo dỡ, 24 tháng 11 năm 1947
Jouett 26 tháng 3 năm 1936 24 tháng 9 năm 1938 25 tháng 1 năm 1939 Bán để tháo dỡ, 1946

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “5"/38 (12.7 cm) Mark 12”. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2007.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tư liệu liên quan tới Somers class destroyers tại Wikimedia Commons

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]