Bước tới nội dung

Tả Thanh Oai

20°56′08″B 105°48′23″Đ / 20,935617°B 105,806372°Đ / 20.935617; 105.806372
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tả Thanh Oai
Xã Tả Thanh Oai
Đình Hoa Xá - Minh Ngự Lâu, nơi thờ vua Lê Đại Hành và người con gái bản địa sau là Đô Hồ phi nhân
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
VùngĐồng bằng sông Hồng
Thành phốHà Nội
HuyệnThanh Trì
Địa lý
Tọa độ: 20°56′08″B 105°48′23″Đ / 20,935617°B 105,806372°Đ / 20.935617; 105.806372
Tả Thanh Oai trên bản đồ Hà Nội
Tả Thanh Oai
Tả Thanh Oai
Vị trí xã Tả Thanh Oai trên bản đồ Hà Nội
Tả Thanh Oai trên bản đồ Việt Nam
Tả Thanh Oai
Tả Thanh Oai
Vị trí xã Tả Thanh Oai trên bản đồ Việt Nam
Khác
Mã hành chính00649[1]

Tả Thanh Oai là một xã thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội, Việt Nam.

Vị trí địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Xã Tả Thanh Oai nằm ở phần phía Tây của huyện Thanh Trì, phía Bắc giáp xã Thanh Liệt của Thanh Trì, góc phía Tây Bắc giáp xã Tân Triều của Thanh Trì và phường Phúc La quận Hà Đông, phía Tây giáp xã Hữu Hòa của Thanh Trì (ranh giới là sông Nhuệ), phía Tây Nam và Nam giáp huyện Thanh Oai (các xã Cự Khê, Mỹ Hưng) ranh giới là sông Nhuệ. Phía Đông, Tả Thanh Oai tiếp giáp với các xã cùng huyện: Đại Áng (ở phía Đông Nam), Vĩnh Quỳnh (chính giữa phía Đông), Tam Hiệp (phía Đông Bắc). Tả Thanh Oai nằm bê bờ tả sông Nhuệ, phía Bắc có đường 70A Văn Điển-Hà Đông chạy qua, ngang qua chính giữa xã là tuyến đường sắt vành đai Văn Điển - Ba La - Phú Diễn chạy từ hướng xã Vĩnh Quỳnh sang xã Hữu Hòa.

Xã Tả Thanh Oai gồm các thôn làng: Tả Thanh Oai, Thượng Phúc, Nhân Hòa, Siêu Quần.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào đầu thế kỷ 19, vùng đất Tả Thanh Oai ngày nay là các xã, thôn (làng) của 2 tổng Tả Thanh Oai (Tả Thanh Oai, Nguyễn Thượng, Ngũ Phúc - Hạ Thanh Oai) và Đại Định (Siêu Quần), đều của huyện Thanh Oai phủ Ứng Thiên (tức Ứng Hòa) trấn Sơn Nam Thượng. Năm 1831, thành lập tỉnh Hà Nội, các làng xã này cùng toàn bộ phủ Ứng Hòa nhập về tỉnh Hà Nội.

Ngày 21 tháng 4 năm 1965, xã Tả Thanh Oai cùng với các xã Liên Ninh, Ngọc Hồi, Đại Áng chuyển về huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Tây (hợp nhất 2 tỉnh Hà Đông và Sơn Tây).

Ngày 29 tháng 12 năm 1975, xã Tả Thanh Oai nằm trong huyện Thường Tín thuộc tỉnh Hà Sơn Bình do hợp nhất 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình.

Ngày 29 tháng 12 năm 1978, 4 xã ở phía bắc huyện Thường Tín là: Đại Áng, Liên Ninh, Ngọc Hồi, Tả Thanh Oai được sáp nhập vào huyện Thanh Trì, TP Hà nội.

Làng Tả Thanh Oai

[sửa | sửa mã nguồn]

Làng Tả Thanh Oai (làng Tó hay Tó Tả) thuộc xã Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì được cả nước biết đến là làng khoa bảng với 12 người đỗ đại khoa, gồm 4 Hoàng giáp và 8 Tiến sĩ, có họ Ngô với dòng Ngô gia văn phái và các danh nhân Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Văn Giáp đã đi vào lịch sử đất nước. Ngoài ra còn có 27 hương cống thời Lê, 10 cử nhân thời Nguyễn.

Những người đỗ đại khoa thuộc 4 họ: Nguyễn Khai Khoa, Ngô Vi, Ngô Thì và Nguyễn Thế. Họ Nguyễn Khai Khoa có 3 tiến sĩ là Nguyễn Chỉ (đỗ năm 1453), Nguyễn Khánh Dung (1478). Nguyễn Tông Trình (1754). Trước đây, đầu dịp hội làng (ngày 14 tháng giêng), quan viên trong làng phải ra lễ ở mộ tổ và ở nhà thờ họ này.

Họ Ngô Thì (Ngô Thời) có 6 tiến sĩ là: Ngô Tuấn Dị (đỗ năm 1688), Ngô Đình Thạc (1700), Ngô Đình Chất (em Đình Thạc, 1721), Ngô Thì Sĩ (Hoàng giáp, 1766), Ngô Thì Nhậm (1775) và Ngô Điền (Hoàng giáp, 1841).

Họ Ngô Vi là dòng họ lập ấp đầu tiên, có hai người đỗ là Ngô Vi Thực (Hoàng giáp, 1691) và Ngô Vi Nho (1694).

Những người đỗ đại khoa của làng Tó có Ngô Đình Thạc làm Tham tụng (Tể tướng), Ngô Đình Chất, Ngô Thì Nhậm làm Thượng thư, 2 người phụng mệnh đi sứ là Ngô Đình Thạc, Ngô Thì Nhậm (Chánh sứ sang nhà Thanh, có nhiều đóng góp cho việc ngoại giao của triều Tây Sơn). Ngô Thì Sĩ có nhiều công lao trong việc giữ yên và phát triển vùng biên giới Lạng Sơn. Ngô Đình Thạc là Trấn thủ Lạng Sơn, khi thành bị quân phỉ vây, ông chịu chết chứ không đầu hàng.

Đóng góp lớn nhất của các nhà khoa bảng làng Tó là về văn học, giáo dục. Hai cha con Ngô Thì Sĩ - Ngô Thì Nhậm là những danh nhân kiệt xuất, học vấn sâu rộng, làm rạng rỡ cho tông phái nhà Nho, vừa là quan văn, vừa là tướng, vừa là nhà sử học, nhà thơ, để lại nhiều tác phẩm có giá trị. Họ Ngô còn nổi tiếng với dòng Ngô gia văn phái, với thiên tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí có giá trị lớn về tư liệu lịch sử.

Cuối TK XIX, Họ Nguyễn Khai khoa sáng ngời trang sử cứu Nước của Danh Nhân Nguyễn Văn Giáp (1837-1887) một Thủ lĩnh xuất sắc của phong trào Cần vương chống thực dân Pháp trong cuộc khởi nghĩa Tây Bắc(Việt Nam) vua Hàm Nghi phong Hiệp Đốc Bắc kỳ quân vụ Đại thần,Phấn Trung tướng quân, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên đã lãnh đạo nhân dân các dân tộc kiên cường chống Pháp.

Để có sự thành đạt về khoa bảng, làng Tả Thanh Oai chế độ khuyến học thỏa đáng. Làng dành 40 mẫu ruộng để làm học điền. Những người đỗ đạt được trọng vọng. Trong tâm thức của người làng, thế đất của làng phát đạt về mặt học hành nên có ý thức với việc học. Cuốn Lư sử điển yếu điều lệ (soạn năm 1791), viết: "Làng Tả Thanh Oai đất do sông Tô dẫn mạch, miếu do sông Nhuệ bồi cơ, danh đăng khoa giáp, thế phiết thi thư, quý mà không phú, phần nhiều là sĩ dân sính về đường học, coi là việc hàng đầu..."

Làng Tả Thanh Oai trước đây có 2 đình là đình Tổ Thị và đình Hoa Xá (nay chỉ còn đình Hoa Xá), thờ Lê Hoàn và Bà Chúa Hến – cô gái làng Tó được Lê Hoàn lấy làm phi trong dịp dẫn đại quân theo đường sông ra Bắc để tiêu diệt quân xâm lược Tống, ghé thăm làng (năm 981). Hội làng tổ chức trong 3 ngày: 13, 14, 15 tháng Giêng, có rước cỗ thờ và rước Giầu vàng từ đình Hoa Xá đến Minh Ngự Lâu (nhà Bà Chúa Hến) để kỉ niệm cuộc gặp gỡ tình duyên giữa Bà và Vua Lê Đại Hành. Ngoài ra còn các nghi lễ hát xướng ca ngợi công đức thành hoàng, cảnh đẹp, có đọc "Mục lục" đề cao truyền thống văn vật của làng, cầu chúc dân làng an khang thịnh vượng. Làng còn giữ được 4 chùa và đặc biệt là 4 nhà thờ của các dòng họ khoa bảng, nhà thờ các danh nhân Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm- các di tích phản ánh truyền thống hiếu học và khoa bảng của làng.

Làng Thượng Phúc

[sửa | sửa mã nguồn]

Làng Thượng Phúc nay là một thôn của xã Tả Thanh Oai (huyện Thanh Trì), vốn là hai làng Nguyễn Thượng và Ngũ Phúc (có tên Nôm là kẻ Hạ). Đầu thế kỷ XIX, hai làng này là hai thôn độc lập thuộc xã Hạ Thanh Oai, tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, phủ ứng Thiên, trấn Sơn Nam Thượng. Năm Minh Mạng thứ hai (1821), các quan trấn Bắc Thành đề nghị cho nhập hai thôn này thành một thôn mang tên Thượng Phúc. Đây là một làng đông dân (năm 1926, làng có 2092 nhân khẩu).

Theo "Lư sử điển yếu điều lệ" do Ngô Thì Nhậm soạn năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) thì làng được hình thành từ lâu, đến giữa thế kỷ XV, một bộ phận tù binh Chiêm Thành bị đày ra đây khai khẩn vùng đất trũng, mở mang làng xóm.

Thượng Phúc xưa kia là một làng nông nghiệp chiêm trũng. Đồng quanh năm trắng nước, việc cấy lúa rất vất vả, không chắc ăn. Vào năm 1939, chính quyền thuộc địa Pháp đã cho nắn đoạn sông Nhuệ, từ địa phận làng Siêu Quần xuống làng Đan Nhiễm, làm cho nước của con sông này thoát nhanh hơn vào mùa mưa lũ. Đồng ruộng của Thượng Phúc và 16 làng trong vùng tiêu nước dễ hơn, nạn úng lụt đã giảm đáng kể, việc làm ruộng thuận tiện hơn. Ngoài làm ruộng, dân làng còn khai thác nguồn thủy sản dồi dào trong đồng chiêm trũng, kết hợp buôn bán.

Làng Thượng Phúc có chùa Bảo Tháp, dân gian thường gọi là chùa Bồ Tát. Đây là ngôi chùa cổ, tương truyền do Nhà sư Lý Thầm - em trai Vua Lý Huệ Tông (1211 - 1224) dựng nên rồi tu hành tại đây. Điều này còn được minh chứng qua một số câu đối ở cột đồng trụ của Tam bảo chùa.

Đến gần cuối đời Trần, có một vị Cao tăng họ Hồ, dòng dõi hoàng thân quốc thích đã từ bỏ bổng lộc, quan tước về đây tu hành. Ngoài việc bỏ tiền của để tu tạo chùa, vị Cao tăng này còn chiêu tìm hàng trăm trẻ mồ côi, những người già nua không nơi nương tựa về nuôi dưỡng, trẻ em được cho ăn họ. Tiếng tăm của Hòa thượng đồn xa khắp mọi nơi. Biết ơn Hòa thượng, dân làng, nhất là những người cô quả đã tạc tượng sống Ngài. Khi Hòa thượng đắc đạo, được nhân dân và triều đình suy tôn là Bồ Tát và gọi chùa Bảo Tháp theo tên được tôn vinh của Ngài. Về sau, có vị Minh Từ Hoàng Thái hậu của Vua Trần về đây lánh nạn giặc Chiêm Thành tàn phá Kinh đô. Thấy Bà là người nhân đức, mộ đạo, Hòa thượng đã giao chùa cho Bà, rồi Ngài cho lập ngay hỏa đàn, trèo lên đàn tụng kinh và sai các đệ tử châm đàn. Lửa cháy rừng rực bốn bề mà Bồ Tát vẫn điềm nhiên đọc kinh Đại Tạng rồi toàn thân Ngài hóa thành than. Hôm đó là ngày 14 tháng Tư, nên hàng năm, dân làng và quanh vùng lấy ngày này làm ngày giỗ Tổ Chùa. Cho đến ngày nay, dân làng Thượng Phúc và trong vùng vẫn tế Bồ Tát bằng bài thơ Nôm thể lục bát.

Sau khi Bồ Tát hỏa thiêu, bà Hoàng Thái hậu trở thành Ni sư sớm hôm đèn nhang thờ Phật, trông nom và mở mang chùa. Dân làng Thượng Phúc kính phục Bà, xin được lập sinh từ ở mé trước chùa để thờ phụng sau này. Ba năm sau, có lệnh Bà phải về Kinh đô. Trước lúc về Kinh, Bà Thái hậu mở yến tiệc đãi dân làng vào ngày 16 tháng Hai. Tiệc đang vui thì Thái hậu trúng gió và qua đời.Vua Trần nghe tin, lệnh cho làng Thượng Phúc thờ Thái hậu làm Phúc thần cùng với Bồ Tát, tại cả chùa và đình (được lập về sau).

Đối chiếu với ghi chép trong chính sử (sách Đại Việt sử ký toàn thư) thì thấy, việc quân Chiêm Thành do Chế Bồng Nga chỉ huy vào tàn phá Kinh đô Thăng Long diễn ra vào năm Tân Hợi - 1371 dưới thời Vua Trần Nghệ Tông. Vì thế, bà Thái hậu về lánh nạn ở chùa Bảo Tháp làng Thượng Phúc chính là vợ Vua Nghệ Tông và là cô ruột của Hồ Quý Ly. Chút ít tư liệu này góp phần bổ sung lịch sử phong phú của Thăng Long- Hà Nội đời Trần.

Làng Nhân Hòa

[sửa | sửa mã nguồn]

Làng Nhân Hòa nay là một thôn của xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì. Lúc đầu gọi là trang Lữ Xuyên (hay Lữ Xuân); cuối thời Lê, đầu thời Nguyễn đổi tên thành Phú Điền và là một xã độc lập thuộc tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam Thượng. Thời Minh Mạng (1820 - 1841), làng được đổi tên thành Nhân Hòa, và thuộc tỉnh Hà Nội (năm 1902 đổi tên phần đất ngoại thành làm tỉnh Cầu Đơ, năm 1904 lại đổi làm tỉnh Hà Đông).

Trong kháng chiến chống Pháp, làng Nhân Hòa nhập với các làng Tả Thanh Oai, Siêu Quần, Thượng Phúc thành xã Đại Thanh thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông. Năm 1965, xã Đại Thanh đổi tên thành Tả Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây (từ cuối năm 1975 là tỉnh Hà Sơn Bình). Đầu năm 1979, xã được chuyển về huyện Thanh Trì (Hà Nội).

Theo cuốn "Lư sử điển yếu điều lệ" - sách chữ Hán do nhóm Ngô gia văn phái soạn vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794), Tiến sĩ triều Lê Nguyễn Đăng Sớ viết lời tựa, hiện còn lưu ở đình làng Tả Thanh Oai thì trang Lữ Xuyên - làng Nhân Hòa do các tù binh Chiêm Thành bị bức ra đây từ thời Lý để khai thác vùng đất trũng - nơi hợp lưu của sông Tô Lịch và sông Nhuệ. Qua bao thế kỷ, di duệ của những người Chăm đã hòa huyết, hòa đồng với người Việt sở tại để tạo lập nên làng xóm trù phú. Dấu ấn Chăm Pa còn lại rất mờ nhạt. Cơ cấu tổ chức, các sinh hoạt văn hóa của dân làng mang đậm phong cách người Việt.

Nhân Hòa là một làng nhỏ, năm 1926 chỉ 462 nhân khẩu. Dân đinh trong làng được chia làm hai giáp: giáp Hậu và giáp Hữu. Dân làng sống chủ yếu bằng trồng lúa và khai thác các nguồn thủy sản trong đồng trũng.

Đình làng Nhân Hòa dựng vào thời Lê - Trịnh, thờ hai vị thành hoàng là: Phương Dung Hoàng Thái hậu thời Lý Triệu Thị Lã và Đông Hải đại vương Đoàn Thượng - một thế lực quân sự mạnh vào cuối thời Lý. Có ý kiến cho rằng, bà Phương Dung Hoàng Thái hậu Triệu Thị Lã là Nhũ mẫu của Vua Lý Huệ Tông (cuối thế kỷ XII) và có công giúp đỡ cả Đoàn Thượng. Tại đình làng hiện còn đôi câu đối nói về việc này. Hai vị thành hoàng được các triều vua phong 38 đạo sắc hiện còn lưu trong đình. Đạo sớm nhất vào năm Đức Long thứ tư (1632).

Làng Nhân Hòa có ngôi chùa Phúc Lâm khá khang trang. Giá trị nhất của chùa là còn lưu hai tấm bia gắn với sự nghiệp của Lê Thời Hiến - vị tướng tài thời Lê - Trịnh. Bia "Bảo Đức bi ký" soạn vào niên hiệu Bảo Thái (1720 - 1727), nói về đức độ, tài năng của Lê Thời Hiến và đóng góp của vợ ông - bà Quận chúa) với chùa. Tấm bia thứ hai "Phúc Lâm tự, khâm minh văn" soạn năm Vĩnh Thịnh thứ hai (1706) nói về đóng góp của dân làng, các quý tộc, trong đó có gia đình Lê Thì Hiến trong việc tu bổ chùa.

Cả đình và chùa Nhân Hòa đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa (năm 1992).

Làng Nhân Hòa còn một di tích là đền Nghĩa. Theo bia "Tân tạo Nghĩa điền kim bi" soạn năm Thịnh Đức thứ hai (1654), hai giáp Hữu và Hậu thuộc xã Lữ Xuyên dựng đền này để thờ Tín chủ là bà Nguyễn Thị Ngọc Quyến và Thượng tướng quân Đô Chỉ huy sứ ty Nguyễn Quý Công, tự Phúc Thuận đã hiến cho làng 4 mẫu 7 sào ruộng và vườn, chia đều cho 2 giáp cày cấy. Hàng năm 2 giáp cúng giỗ ông bà theo ghi trong văn bia.

Làng Siêu Quần

[sửa | sửa mã nguồn]
Đường làng Siêu Quần
Tổng Đại Định 1886-1888
Xã Siêu Quần TK19-20

Làng Siêu Quần(超群) là một làng Việt cổ nằm bên dòng sông Nhuệ, xưa là một trang có tên là Quần Cư (群居), tên nôm là kẻ Gùn. Đầu thế kỷ XIX, là một xã thuộc tổng Đại Định, huyện Thanh Oai.

Địa giới xã Siêu Quần 1947-1949

Theo truyền tích: Quần Cư trang thuở sơ khai vốn là vùng đầm lầy lau sậy, nước ngập mênh mông. Các hào kiệt sau những cuộc khởi nghĩa thất bại đã phiêu dạt về đây lập nghiệp, sinh nhai bằng nghề bắt cua cá, cấy trồng, đến việc chặn đường cướp bóc. Do vậy, có một thời người ta gọi nơi đây là "đất nghịch". Ban đầu, dân cư tập trung ở dọc bờ Bắc sông Nhuệ (nay là xứ đồng Hạ, dọc bờ sông Nhuệ, xưa kia tại đây có một ngôi miếu và 2 gốc gạo lớn). Sau một trận lũ lớn, nước ngập đến mái nhà, có một con chó mẹ tha đàn con đến gò đất chếch về phía đông. Dân làng thấy đó là điềm tốt nên sau trận lũ đã chuyển đến gò đất đó sinh sống, tức trung tâm làng bây giờ.

Làng Siêu Quần là nơi dân cư từ nhiều vùng tới sinh sống, đúng như câu ngạn ngữ "Lang bạt Siêu Quần, cao quan Kẻ Lủ". Trong đó, một bộ phận lớn là người từ Thanh HóaThừa Thiên Huế chuyển ra từ đầu thời Lê Trung Hưng. Mặc cho 500 năm đã trôi qua, người dân nơi đây vẫn giữ được những âm gốc từ quê hương. Điều này đã tạo nên nét văn hóa đặc sắc và riêng biệt so với các vùng dân cư xung quanh.

Dân làng Siêu Quần xưa có nghề phụ "vặn móc" và chủ yếu làm ruộng, song đa phần ruộng ở đây là chiêm trũng, hàng năm thường bị úng ngập bởi nước lũ sông Nhuệ nên năng suất lúa thấp và bấp bênh. Năm 1939, chính quyền thuộc địa Pháp cho nắn đoạn sông Nhuệ, từ địa phận của làng xuống làng Đan Nhiễm, điều này giúp đồng ruộng của làng và 16 làng khác trong vùng tiêu nước dễ dàng hơn, giảm đáng kể tình trạng úng lụt hàng năm. Đến năm 1942, để hạn chế thêm tình trạng úng lụt, người Pháp tiếp tục cho đào con mương từ gò Quán thuộc làng Vĩnh Thịnh xuống cống Hai Cửa giáp làng Siêu Quần.

Đình Siêu Quần - 2022

Vào thời Nguyễn, xã Siêu Quần được chia thành 4 thôn: Thượng, Trung, Mỹ và Hạ. Hiện nay, các thôn này tương ứng với 4 xóm: Thượng, Trung, Mỹ (Me), Hạ (Dõn).

Vào thời vua Tự Đức, làng Siêu Quần vinh dự được ban biển ngạch "Mỹ tục khả phong - 美俗可風" vì có công quyên góp cứu tế bần nông.

Các di tích lịch sử:

  • Đình làng Siêu Quần
Đình Siêu Quần - 1994
Vĩnh Knh 2 (1731)

Đình Siêu Quần hình thành từ thế kỷ 17, khoảng cuối thế kỷ 18 đình bị cháy (tại xứ Đình Đặng - 亭鄧處 đã thành nghĩa trang) và được dựng lại tại vị trí như hiện nay. Đình xây mặt hướng nam đông nam (bính hướng) trên gò cao, phía trước là vùng đồng trũng (tức xứ đồng Đỗi 同隊) kéo dài dọc theo phía đông làng.

Đình Siêu Quần hình thành từ thế kỷ 17. Khoảng cuối thế kỷ 18, đình bị cháy tại xứ Đình Đặng (亭鄧處, nơi hiện nay là nghĩa trang) và được xây dựng lại trên gò đất cao (ở vị trí hiện tại), theo hướng nam đông nam (bính hướng). Phía trước đình là vùng đồng trũng (tức xứ đồng Đỗi 同隊) trải dài dọc phía đông của làng.

Tổng thể khuôn viên kiến trúc đình gồm: phía trước đình là ao sen, cây đa cổ thụ, ngoài sân gạch trong là đồng trụ tam quan, giếng hóa mã, hai dãy nội tảo mạc gồm 7 gian cùng đại đình 5 gian, hậu cung 3 gian 2 trái. Sau đình phía ngoài là ao, bên trong là sân gạch, ngoài ra còn có đàn Thần Nông lộ thiên sau nhà hữu mạc trước gốc đa phía tây đình.

Tổng thể khuôn viên kiến trúc đình gồm: phía trước đình là ao sen, cây đa cổ thụ, ngoài sân gạch là đồng trụ tam quan, giếng hóa mã, hai dãy nội tảo mạc gồm 7 gian, cùng với đại đình 5 gian 2 trái và hậu cung 3 gian 2 trái. Phía sau đình, bên ngoài là ao, bên trong là sân gạch. Ngoài ra, còn có đàn Thần Nông ở phía trước gốc đa phía tây của đình.

Hiện nay, kiến trúc đình mang phong cách thời Nguyễn với đợt trùng tu lớn vào tháng 7 năm Đinh Tỵ (1917) dưới thời vua Khải Định (皇朝啓定嵗次丁己年孟秋重修), cùng đợt trùng tu năm 2001. Thời kỳ cải cách, các vị thành hoàng được rước lên chùa, đình được tận dụng làm nhà kho. Hai dãy tảo mạc 7 gian bị cắt bỏ còn 5 gian, cũng vào khoảng thời gian này, một phần kiến trúc gian hữu của đại đình đã bị cháy, dấu tích vẫn còn lưu lại đến ngày nay. Sau thời kỳ đổi mới và khôi phục văn hóa, nhân dân đã rước các vị Thành hoàng từ chùa trở về đình để thờ phụng và phục hồi các lễ hội truyền thống. Qua nhiều năm, các đồ tế khí thờ tự, sắc phong, câu đối, đại tự có giá trị đã dần bị mất trộm và nay đã được thay thế bằng đồ mới.

Điều đặc biệt là hai dãy tả hữu mạc đồng thời là nơi cất giữ thuyền đua (chải) nên được xây dựng khá dài, kéo dài suốt chiều dài của tòa đại bái đến hết sân gạch. Mỗi dãy có hai chải, một chiếc đặt sát đất, chiếc còn lại được gác ở lưng chừng. Làng có 4 xóm nên mỗi xóm có một chải bơi. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946-1954), nhân dân đã dìm những chiếc thuyền này xuống sông để cất giấu và bắc cầu qua sông Nhuệ, góp phần bảo vệ an toàn cho căn cứ cách mạng. Đáng tiếc là những chiếc thuyền này đã bị mục nát do ngâm nước quá lâu. Tuy nhiên, dựa vào chiều dài của dãy tảo mạc, có thể ước đoán chiều dài của chải khoảng 14 mét và chiều rộng hơn 1 mét.

Cảnh Thịnh 1 (1793)
Minh Mệnh 2 (1821)
Hôi làng Siêu Quần - 1994
Ký niệm bi lục - 1938

Đình làng Siêu Quần thờ 2 vị thành hoàng cùng phối thờ 2 vị nữ thần.

  • Đương Cảnh Tối Linh Thành Hoàng Hổ Lang Đại vương (虎狼大王) - Trịnh Thượng Đẳng Thần và Diêu La công chúa (姚𡤢公主).

Trịnh Khả (1403 - 1451), người làng Giang Đông, xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Ông là một trong mười tám người có mặt tại Hội thề Lũng Nhai của Lê Lợi và sau đó đã lập được nhiều chiến công trong cuộc chiến đánh đuổi giặc Minh. Sau khi Lê Lợi lên ngôi, ông được phong tước Hổ Vệ tướng quân, Thượng trụ quốc, Bình chương quân quốc trọng sự và được khắc tên vào bia công thần. Sau khi bị gian thần gièm pha, vào mùa thu, tháng 7, ngày 26 năm Tân Mùi (1451), ông và con trai cả là Trịnh Bá Quát đã bị sát hại. Đến đời vua Lê Thánh Tông, ông được minh oan, phục hồi quan tước và được phong làm Phúc thần.

  • Đương Cảnh Tối Linh Thành Hoàng Đông Hải Đại Vương (東海大王) - Nguyễn Thượng Đẳng Thần và Quý Minh công chúa (貴明公主).

Nguyễn Phục (1434? - 1470), người thôn Đông, xã Thanh Tùng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương, đỗ Hoàng giáp khoa Quý Dậu, niên hiệu Thái Hòa thứ 11 (1453) dưới triều vua Lê Nhân Tông. Ông làm quan đến chức Hàn lâm viện kiêm Vương phó (thầy dạy các vương tử). Vào năm Canh Dần (1470), khi vua Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, Nguyễn Phục được cử giữ chức Đốc lương. Trên đường vận chuyển, đoàn thuyền không may gặp bão lớn, lương thảo đến chậm trễ, vì vậy ông bị xử trảm theo quân luật. Về sau, khi biết ông bị oan, vua vô cùng hối hận và đã phong ông làm Phúc thần.

Tại đình còn phối thờ 2 vị nữ thần Diêu La Công Chúa và Quý Minh công chúa, tuy nhiên thần tích hiện chưa rõ. Trải qua các triều đại Lê Trung HưngTây Sơn, đều ban sắc phong cho 4 vị. Đạo sắc sớm nhất được biết đến được gia phong vào năm Dương Đức thứ 3 (1674). Đến triều Nguyễn, chỉ có 2 vị thần được ban sắc và gia phong là Đông Hải Nguyễn thượng đẳng thần và Quý Minh phu nhân trung đẳng thần (靈濟艶娟閒靜嫻婉齋靜翊保中興貴明夫人中等神).

- Hiện nay, toàn bộ các sắc phong Thần đã bị mất trộm.

- Ngoài ra, Đình làng xưa còn thờ các vị tiên công, hậu thần các ban tả hữu:

Thời Lê - Trịnh: năm Chính Hoà 18 (1697), Làng Siêu Quần cùng tôn Quận Phu nhân họ Đoàn làm Hậu Thần.

黎朝入侍鄭西王府特賜美良容段氏號妙寧諱桃字日謚清潔郡夫人 - Lê triều nhập thị Trịnh Tây Vương phủ đặc tứ Mỹ Lương Dung Đoàn thị hiệu Diệu Ninh huý Đào tự Nhật thuỵ Thanh Khiết Quận Phu nhân. Sinh giờ thân ngày 14 tháng 9 năm Mậu Tý 1648. Mất ngày 1 tháng 10 năm Đinh Sửu 1697. Hưởng thọ 50 tuổi. Mộ táng tại ruộng hậu - xứ Mả Mai làng Tó Hữu.

Quận Phu nhân vốn xuất thân trâm anh thế phiệt, nội ngoại nhiều đời làm quan, lại được tiến cung phủ chúa Trịnh Tây Vương, đặc ban làm Quận phu nhân, sau vì có biến nên bà cáo về quê Hữu Châu (Tó Hữu). Vì tưởng nhớ Quận Phu nhân thường có công đức cho làng nên đã tôn làm Hậu Thần. Hàng năm đến ngày giỗ chạp thì tế ở Miếu, phàm là tế tự Đại Vương thì phối ở ban tả, có đủ văn bia ghi chép, việc thờ tự cũng rất linh ứng.

Thời Nguyễn: năm Tự Đức 7 (1854), Làng lại bầu ông họ Nguyễn tự Thuần Khoan (giỗ 11/7) cùng bà họ Nguyễn hiệu Từ Hậu (giỗ 7/5) làm Hậu do có công đức tu sửa Đình Chùa, cúng dường phúc điền.

Thời Nguyễn: năm Bảo Đại 4 (1929), năm Bảo Đại 7 (1932), Làng lại bầu ông họ Trịnh huý Khuyến tự Thuần Phổ (giỗ 14/8) cùng bà họ Lê huý Nhuận hiệu Diệu Nhuận (giỗ 7/?) làm Hậu do có công đức tu sửa Đình Chùa, cúng dường phúc điền. Hàng năm đều cúng tế như lệ.

Hội làng Siêu Quần trước đây được tổ chức vào các dịp 10-2 (cầu Đinh); 12-5 (Kỳ phúc) và 10-8 (đại Kỳ phúc).

Lễ "Cầu đinh" diễn ra vào ngày Đinh đầu tiên của tháng 2 âm lịch. Sáng ngày hôm trước, các vị cao niên trong làng sẽ tiến hành lễ cáo yết tại đình. Buổi chiều cùng ngày, con trâu được chọn, sau khi tắm rửa sạch sẽ, sẽ được dắt qua sân đình để trình Thánh. Vào ngày hôm sau, con trâu sẽ được mổ và thui cả con để dâng tế Thần Nông. Đặc biệt, phần đuôi sẽ được cắt rời và chôn xuống đất, chỉ để lộ một đoạn lên trên, thể hiện ước nguyện làng có thêm nhiều con trai ("Đinh"). Đây cũng là dịp để thực hiện lễ hạ điền. Vì vậy, vào chiều ngày hôm đó, sau khi lễ tế tạ kết thúc, cụ chủ tế sẽ chạy ra cánh đồng, và dân làng cùng nhau chạy theo ném những cây tre còn nguyên cành lá. Tương truyền, nếu ném trúng người nào, người đó sẽ gặp may mắn cả năm!

Hậu bi - 1952
Linh Ứng tự - 2022
Kỵ nhật bi ký - Tự Đức 7 (1854)

Vào tháng 5 âm lịch, lễ "Kỳ phúc" được dân làng tổ chức với việc giết trâu, bò để sửa lễ. Nếu năm nào mất mùa, lễ vật sẽ được giảm bớt bằng gà hoặc lợn. Vào ngày 11, sau khi các cụ cao niên tế cáo yết xong, dân của bốn xóm sẽ rước kiệu long đình đến nhà lý trưởng để xin chúc văn và rước kiệu ra đình. Ngày 12, hội thi làm các loại bánh được tổ chức. Buổi chiều, dân làng tiến hành lễ tế tạ. Buổi tối, phường chèo được mời về để diễn các tích cổ, phục vụ nhu cầu thưởng thức văn hóa của dân làng.

Lễ "Đại kỳ phúc" vào tháng 8 âm lịch được tổ chức ba năm một lần, thường vào những năm được mùa hoặc theo lệ tế hàng năm. Trước đó, vào sáng ngày 9, các vị cao niên tiến hành lễ cáo yết tương tự như lễ "Kỳ phúc tháng Năm". Dân của các giáp sửa soạn lễ vật ra đình dâng Thánh, bao gồm các loại bánh dày, bánh tẻ, bánh bột lọc,... đều là những sản vật từ lúa gạo quê hương. Lễ vật được bày trên hai dãy bàn dọc theo gian giữa tòa đại bái để chuẩn bị cho buổi lễ tối. Gần đến giờ hành lễ, có nghi thức "củ soát lễ vật". Hai vị cao niên trong ban tế được cử ra cắt bánh ở từng mâm để chấm thi. Giáp nào có bánh thơm ngon sẽ được trao giải.

Ngày 10 là chính hội. Buổi sáng, nghi lễ rước kiệu Thánh được tổ chức trang trọng xung quanh làng để dân chúng chiêm ngưỡng. Đám rước xuất phát từ đình và đi đến đầu làng rồi quay trở về. Sau khi lễ tế Thánh hoàn tất, các giáp rước lễ vật của mình về để thụ lộc và chuẩn bị cho hội thi bơi chải vào buổi chiều. Mỗi chải có 30 trai đinh, được phân công nhiệm vụ như sau: 1 lái nhất, 2 lái ba, 1 người tát nước và 26 trai bơi. Tất cả đều cởi trần, đóng khố, đầu quấn khăn nhiễu rồi lần lượt xuống thuyền. Riêng bốn ông lái nhất ngồi ở bốn góc chiếu hoa được trải giữa sân đình. Giữa chiếu đặt cơi trầu và bốn chiếc bơi chèo đặt ở bốn góc. Sau khi một cụ cao niên đổ nước ngũ vị vào các thuyền, một tràng pháo nổ giòn giã vang lên. Cụ nhất trong làng đánh trống cầm trịch, đến tiếng trống cuối cùng "các, tùng" thì bốn ông lái nhất nhanh chóng cướp trầu, cầm bơi chèo và chạy nhanh xuống chải của mình, ra hiệu cho đội xuất phát. Mốc thi bơi chải là từ cửa đình đến gò Đồng thuộc làng Vanh, được gọi là "nêu nhất". Nếu năm nào nước lớn, mốc thi sẽ kéo dài đến xứ Chùa Cũ, được gọi là "nêu nhì" (chiều dài khoảng 3 km).

Ngày 11, có thêm hai đợt thi nữa diễn ra. Khi trai của xóm nào thi, con gái của xóm đó sẽ lo việc trầu nước và đứng trên bờ cổ vũ nhiệt tình. Ngày 12, buổi sáng diễn ra lễ tế yên vị. Đến chiều, các trai bơi sẽ đưa thuyền lên và cất vào hai bên dãy tảo mạc. Giải nhất của hội bơi chải là một nọng lợn và một buồng cau; giải nhì là một cẳng giò và nửa buồng cau; giải ba là ba quả cau và một miếng thịt lợn. Có câu tục ngữ rằng: "Lệ làng tháng tám thì bơi, trai thời thi sức gái thời thi hoan". Hay câu ngạn ngữ: "Thúng làng Sái, gái làng Hạ, mạ làng Nai, trai làng Gùn" nói về sự khỏe mạnh và giỏi giang của trai tráng làng. Ngoài ra, lễ hội còn có các hoạt động thi làm bánh, đấu vật và nhiều trò chơi dân gian khác...

Ngày nay, hội làng Siêu Quần được tổ chức vào các năm chẵn, cứ hai năm một lần, vào ngày 10 tháng 2 âm lịch. Dịp xuân về cũng là ngày kỷ niệm đón nhận bằng công nhận "di tích lịch sử về kiến trúc - nghệ thuật" của Bộ Văn hóa - Thông tin (9/2/1994). Tuy nhiên, hội thi bơi chải không còn được tổ chức như trước, và lễ rước kiệu chỉ diễn ra từ đình đến đầu làng rồi quay trở về. Ngoài các dịp tế Trừ Tịch, tế Đinh vào tháng 2 âm lịch, Kỳ Phúc vào tháng 5 và tháng 8 âm lịch, các ngày tế lễ khác đã bị bỏ.

  • Miếu
Ký kị bi ký - Bảo Đại 4 (1929)

Thần linh miếu, miếu thờ thần linh tại thôn Trung, nay là xóm Trung. Trước thời kỳ cải cách, trong miếu vẫn còn một cây sấu cổ thụ với chu vi gốc hơn ba người ôm, tuổi thọ trên 300 năm. Theo sách Bản xã truyện, vào những năm cuối thời vua Tự Đức, miếu, đình và chùa đều được tu sửa do xuống cấp. Hiện nay, miếu còn lưu giữ được tấm bia "Ký niệm" khắc vào năm Bảo Đại thứ 13 (1938), ghi lại việc tu tạo lại miếu. Đến thời kỳ cải cách, việc thờ tự tại miếu dần bị lãng quên. Sau đó, miếu được người dân sửa chữa, rước tượng Phật từ chùa về và tạc thêm hệ thống tượng Phật mới để thờ tự. Từ đó, miếu được chuyển thành chùa và có tên là "樍玉 - Tích Ngọc". Trong một khoảng thời gian, nơi đây còn được tận dụng làm trường học. Hiện nay, chùa còn lưu giữ hai tấm bia hậu Phật được tạo tác vào năm 1952. Hiện nay, nơi đây là chùa Tích Ngọc, với hệ thống kiến trúc và tượng Phật mới được xây dựng lại.

  • Chùa làng Siêu Quần

Chùa có tên chữ là "Linh Ứng" (靈應). Xưa kia, chùa tọa lạc ở đầu làng (khu vực đất chùa là xứ Chùa Cũ - 㕑𬞺處, nơi nay đã thành nghĩa trang và thường được gọi là Gốc Gạo do trước đây có một cây gạo cổ thụ). Khoảng cuối thế kỷ 18, sau một trận hỏa hoạn, chùa đã được chuyển về vị trí hiện tại. Chùa được xây dựng theo hướng đông nam. Phía đông là đồng ruộng (tức xứ Đầu Cầu 頭捄), phía tây giáp sông Nhuệ.

Chùa chính có kết cấu hình chữ Đinh, bao gồm tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường là một dãy nhà ngang gồm 5 gian. Hai gian bên trái tiền đường thờ ban Hộ pháp Khuyến thiện và ban Đức Ông. Hai gian bên phải tiền đường thờ ban Hộ pháp Trừng ác và ban Thánh Hiền. Phía trước đầu hồi gian phải là ban Hậu Phật. Gian giữa của tiền đường nối liền với thiêu hương và gian đầu của thượng điện. Thượng điện là một dãy nhà dọc gồm 3 gian. Gian đầu là bái đường, hai gian sau thờ Tam Bảo (Ngọc Nữ - Cửu Long; Bắc Đẩu - Ngọc Hoàng - Nam Tào; Tuyết Sơn - Chuẩn Đề - Di Lặc; Phổ Hiền - Thích Ca - Văn Thù; Thế Chí - Di Đà - Quan Âm; Tam Thế). Hai bên hành lang tả hữu của Tam Bảo là các ban thờ Thập Điện - Tứ Vương, Thổ Địa - Giám Trai, và cuối cùng là hai vị Quan Âm: Tọa Sơn và Tống Tử. Phía trước chùa chính là sân nối liền với cổng tam quan. Khu nhà Mẫu được xây dựng bên phải thượng điện theo hình chữ Đinh, bao gồm tiền tế và hậu cung. Phía trước nhà Mẫu là sân gạch, bên phải là nhà Tổ.

Chùa có hệ thống tượng Phật và kiến trúc mang đậm phong cách thời Nguyễn. Tượng Phật và đồ thờ tự đã dần bị mất trộm, hiện nay đã được thay thế bằng đồ mới. Chùa còn lưu giữ được ba tấm bia hậu khắc vào các năm Tự Đức thứ 7 (1854), Bảo Đại thứ 4 (1929) và Bảo Đại thứ 7 (1932).

Tương truyền, xưa kia nơi đây từng được dùng để giam lỏng những quan lại trái ý vua nhưng không thể xử tội ?

Tài liệu tham khảo:

  • Hội làng Hà Nội.
  • Từ Điển địa danh văn hóa và thắng cảnh Việt Nam.
  • Thần tích thần sắc Hà Nam.
  • Di sản hán nôm Việt Nam.
  • Đồng Khánh dư địa chí.
  • Bản xã truyện - Tự Đức 34 (1881)
  • Bản xã tế văn - niên giám Bảo Đại
  • Đông Trù Đoàn tộc phả - Minh Mệnh 13 (1832)
  • Hồ sơ di tích - cục di sản.
  • Viện nghiên cứu hán nôm:
  1. Thần tích: AE.a7/30 ; AE.a2/81 ; AD.a2/60 ; AD.a9/4
  2. Thác bản: 52950, 52951, 52952, 52953, 52954, 52955
  • Thư viện Khoa học xã hội: TTTS005102, TTTS004927, TTTS003524, TTTS001188, TSHN000347, TTTS001090
  • Trung tâm Lưu trữ quốc gia 1:
  1. Địa bạ Gia Long 4 - số hồ sơ: 5125
  2. Tài liệu lưu trữ về làng xã tỉnh Hà Đông - Fonds D'archivies De La Résidence De Hà Đông - tổng Đại Định - Hồ sơ: 1799, 1790, 2343

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]