Tỏi đen
Tỏi đen là tỏi khô được chuyển màu đen từ tỏi trắng thông thường bằng phản ứng Maillard. Quá trình này được thực hiện bằng cách nung nóng toàn bộ củ tỏi với nhiệt độ khác nhau trong suốt vài tuần, một quá trình tạo ra nhân (tép tỏi) màu đen. Hương vị của tỏi sau xử lý trở nên ngọt như sirô với vị dấm balsamic[1] hoặc vị quả me.[2]
Xuất xứ từ Nhật Bản,[cần dẫn nguồn] hiện tại tỏi đen đã trở thành một thành phần được tìm kiếm và sử dụng trong ẩm thực cao cấp.
Quá trình sản xuất tỏi đen không phải là quá trình lên men mà là phản ứng Maillard, không liên quan đến hoạt động của vi sinh vật.[3]
Lịch sử
Trong Đạo giáo, tỏi đen được cho là sẽ giúp trường sinh bất lão.[cần dẫn nguồn] Tại Nhật Bản, tỏi đen đã được phát triển như một sản phẩm y tế và nó vẫn được coi là vậy cho đến nay. Đôi khi nó được thêm vào nước giải khát năng lượng,[4][5] và ở Thái Lan nó được cho là làm tăng tuổi thọ của người dùng.[6] Nó cũng được dùng để sản xuất sôcôla tỏi đen.[7]
Chú thích
- ^ Pollack, Stefani (ngày 20 tháng 11 năm 2008). “Black Garlic is Garlic, But Better”. Slashfood. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2009.
- ^ Nichols, Rick (ngày 11 tháng 12 năm 2008). “Live and in person, the food bloggers munch”. Philadelphia Inquirer. tr. F1.
- ^ Hatchett, Caroline. “The Dirty Secrets and Deep Flavor of Black Garlic”. Starchefs.com. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2014.
- ^ Senapati, S.K; Dey, S.; Dwivedi, S.K; Swarup, D. “Effect of garlic (Allium sativum L.) extract on tissue lead level in rats”. ScienceDirect. doi:10.1016/S0378-8741(01)00237-9. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2015.
- ^ Fabricant, Florence (ngày 7 tháng 10 năm 2008). “Garlic, Either Sweet or Squashed”. The New York Times. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2009.
- ^ “Zwarte knoflook zonder vieze adem”. HLN. ngày 1 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2009.
- ^ Levenstein, Steve. “Black Garlic Chocolates Add Aroma to Amore”. Inventorspot. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2009.