Thành viên:Mintu Martin/Nháp/15

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


Tập tin:Main characters of One Piece.png
Các nhân vật chính của One Piece - băng Hải tặc Mũ Rơm. Từ trái qua phải: Nico Robin, Nami, Brook, Sanji, Monkey D. Luffy (hàng trước), Jinbei (hàng sau), Tony Tony Chopper, Roronoa Zoro, FrankyUsopp.

Bộ manga One Piece quy tụ dàn nhân vật đông đảo do Oda Eiichiro sáng tạo. Bộ truyện lấy bối cảnh ở một vũ trụ hư cấu - nơi sinh sống của vô số hải tặc (cướp biển), quân lính, nhà cách mạng và những nhà thám hiểm khác tranh đấu lẫn nhau, sử dụng nhiều loại siêu năng lực. Đa số các nhân vật là con người, song ngoài ra còn có tộc người lùn, tộc người khổng lồ, tộc nhân ngư, tiên cá, người cá[a] tộc người trên trời, tộc mink[b] và nhiều chủng tộc khác nữa. Nhiều nhân vật có được siêu năng lực nhờ ăn "Trái Ác Quỷ". Tuyến truyện của tác phẩm xoay quanh những cuộc phiêu lưu của băng Hải tặc Mũ Rơm trên đường tìm kiếm kho báu huyền thoại "One Piece".

Monkey D. Luffy là nhân vật chính của bộ truyện, cậu là một hải tặc tuổi thiếu niên mong ước được kế thừa Gold Roger (Vua Hải Tặc quá cố) bằng cách tìm ra kho báu "One Piece" của ông. Trong suốt bộ truyện, Luffy tập hợp một băng đa dạng thành viên, đặt tên là Băng Hải tặc Mũ Rơm: chiến binh đánh bằng ba thanh kiếm Roronoa Zoro; nữ đạo tặc và hoa tiêu Nami; tay thiện xạ và nhà phát minh hèn nhát Usopp; đầu bếp và võ sĩ đa tình Sanji; tuần lộc nhân hóa và bác sĩ Tony Tony Chopper; nhà khảo cổ học Nico Robin; thợ đóng tàu người máy Franky; nhạc công trong hình hài bộ xương sống Brook; và người lái tàu người cá Jinbei. Họ cùng nhau dong buồm ra khơi nhằm theo đuổi ước mơ của mình, chạm trán với các hải tặc, thợ săn tiền thưởng, tổ chức tội phạm, nhà cách mạng, mật vụ và quân lính của Chính Phủ Thế Giới lũng đoạn, cùng nhiều bạn bè và kẻ thù khác.

Sáng tạo và xây dựng nhân vật[sửa | sửa mã nguồn]

Tập tin:Straw Hats Concept Art.png
Tạo hình ban đầu cho băng Hải tặc Mũ Rơm.

Nhiều nhân vật được cho là dựa trên các hải tặc và thủy thủ ngoài đời thật như: Eustass Kid (Eustace the MonkWilliam Kidd), X. Drake (Sir Francis Drake), Basil Hawkins (Basil RingroseJohn Hawkins), Capone Bege (Al Capone và William Le Sauvage), Jewelry Bonney (Anne Bonny), Urouge (ArujOruç Reis), Alvida (Awilda), Bartolomeo (Bartholomew Roberts), Bellamy (Samuel Bellamy), Râu Đen (Edward Teach), Cavendish (Thomas Cavendish), Big Mom (Charlotte Badger), Gold Roger (Olivier Levasseur), Lafitte (Jean Lafitte), Roronoa Zoro (François l'Olonnais), Silvers Rayleigh (Sir Walter Raleigh), Thatch (Edward Thatch), Yorki (Calico Jack), Zeff và Sanji ("Red Legs" Greaves), Trafalgar Law (Edward Low), Barbarossa (Hayreddin Barbarossa) và Scratchmen Apoo (Chui A-poo).[ch. 508] Nhân vật mặc dồ khác giới Emporio Ivankov thì dựa trên Dr. Frank N. FurterImamura Norio. Norio đã đề xuất Oda vẽ các nhân vật có phần okama (đồng tính luyến ái) hơn và trở thành diễn viên lồng tiếng Ivankov đầu tiên.[ch. 570]

Oda sáng tạo Helmeppo trước khi tạo ra Đại úy Morgan (cha Helmeppo). Lúc đầu Oda định đặt tên Morgan theo tên "Chop", tức là tên đầy đủ của nhân vật là "Đại úy Hải quân Captain Chop" hoặc "Thủy thủ Chop". "Thủy thủ" trong tiếng Nhật là suihei (水兵 suihei?), còn "Suihei Chop" là một chiêu thức chiến đấu mà đô vật Nhật Bản Giant Baba sử dụng. Anh sáng tạo một số phiên bản của Morgan, rồi chốt mẫu thiết kế cuối. Sau một biên tập viên nhắc anh rằng Morgan trông "thật kém sang" (theo lời Oda), anh đã đổi thiết kế sang kiểu dáng cuối.[tập 1:p. 144 (en)]

Băng Hải tặc Mũ Rơm[sửa | sửa mã nguồn]

Tập tin:One piece logo.png
Jolly Roger của Băng Hải tặc Mũ Rơm

Các nhân vật chính của One Piece là toàn bộ các thành viên của Băng Hải tặc Mũ Rơm (麦わらの一味 Mugiwara no Ichimi?) - một băng hải tặc gồm mười thành viên do Monkey D. Luffy làm thuyền trưởng. Số lượng thành viên của băng tăng lên trong suốt bộ truyện sau mỗi lần Luffy tuyển mộ thành viên mới. Khi Usopp gia nhập Băng Hải tặc Mũ Rơm, họ kiếm được con tàu riêng tên là Going Merry, song sau đó nó bị hư hỏng và thay bằng một con tàu lớn hơn và mạnh hơn - Thousand Sunny do thợ đóng tàu Franky của băng chế tác. Hai năm sau, Băng Mũ Rơm xây dựng được hạm đội mới, đặt tên là Đại Hạm đội Mũ Rơm, gồm 5.640 hải tặc từ bảy băng khác nhau; Luffy phản đối ý tưởng làm chỉ huy hạm đội, cậu cho tổ chức quân đội theo phương thức cho phép họ có thể tác chiến độc lập, nhưng khi một băng gặp sự cố thì những băng kia phải tìm cách để có thể hỗ trợ họ. Tính đến cuối tiểu phần Wano Quốc, Băng Hải tặc Mũ Rơm được công nhân vật là băng của Tứ Hoàng chỉ huy, còn Luffy cũng được xem là thủ lĩnh của Đại Hạm đội Mũ Rơm,[ch. 903] còn chín thành viên kia làm Cán bộ Cấp cao,[ch. 1058] sau khi họ đánh bại cả Kaido lẫn Big Mom.

Monkey D. Luffy[sửa | sửa mã nguồn]

Monkey D. Luffy (モンキー・D・ルフィ Monkī Dī Rufi?) là thuyền trưởng của Băng Hải tặc Mũ Rơm và nhân vật chính của bộ truyện One Piece. Năm bảy tuổi, cậu ngưỡng mộ và tìm cách gia nhập băng hải tặc của Shanks "Tóc Đỏ". Sau khi bị chế giễu và từ chối, cậu vô tình ăn phải kho báu của băng là Trái Gum-Gum (ゴムゴムの実 Gomu Gomu no Mi?) thuộc hệ Paramecia, mang lại cho cậu đặc tính của cao su. Những hành động liều lĩnh đã đẩy cậu vào nguy hiểm, buộc Shanks phải hi sinh cánh tay trái để giải cứu cậu. Sau sự việc này, Luffy từ bỏ ý định gia nhập băng của Shanks, thay vào đó quyết tâm lập một băng hải tặc của riêng cậu và trở thành Vua Hải Tặc.[ch. 1] Bất mãn vì Shanks làm hư cháu mình, Garp đưa Luffy đến chỗ Curly Dadan và băng sơn tặc của bà để họ nuôi dạy cậu. Trong thời gian Luffy sống ở đây, cậu kết nghĩa anh em với Ace (một đứa trẻ khác mà Garp bảo hộ) và Sabo (cậu nhóc thuộc một gia đình quý tộc địa phương đang chạy trốn).[ch. 582589]

Mười năm sau và vẫn đội chiếc mũ quý giá mà Shanks trao tặng, Luffy thành lập và chỉ huy băng hải tặc riêng có tên là Băng Hải tặc Mũ Rơm và dong buồm ra khơi đi đến Đại Hải Trình, nhanh chóng trở nên khét tiếng với biệt hiệu Luffy "Mũ Rơm" (麦わらのルフィ Mugiwara no Rufi?).[ch. 2, 7, 96, 98] Cuối cùng, sau khi không đủ sức mạnh để cứu Ace khỏi bị hành quyết, cậu mất hai năm trên một hòn đảo hẻo lánh để tập luyện ba loại Haki cũng như sức mạnh cao su Gear 4 từ Silvers Rayleigh, trước khi đến Tân Thế Giới.[ch. 590602] Nhờ sự khét tiếng của mình, cậu là một trong những hải tặc thuộc "Thế hệ Tồi tệ Nhất". Sau khi đánh bại KaidoBig Mom, cậu được vinh danh vào hàng ngũ Tứ Hoàng. Luffy còn có thể sử dụng các loại Haki cấp cao vào thực chiến. Trong trận đánh với Kaido, sức mạnh trái ác quỷ của cậu thức tỉnh, để lộ bản chất thật của nó là hệ Zoan Thần Thoại, tức Trái Human-Human, Mẫu: Nika.

Trong bản anime, người lồng tiếng Luffy là Tanaka Mayumi.[1] Ở bản chuyển thể tiếng Anh của 4Kids Entertainment, cậu được lồng tiếng bởi Erica Schroeder.[2] Ở bản chuyển thể tiếng Anh của Funimation Entertainment, người lồng tiếng cậu là Colleen Clinkenbeard.[3]

Luffy được thể hiện bởi nam diễn viên Iñaki Godoy ở bản chuyển thể người đóng của One Piece.[4]

Roronoa Zoro[sửa | sửa mã nguồn]

Roronoa Zoro (ロロノア・ゾロ?) là một kiếm sĩ sử dụng cùng lúc ba thanh kiếm, mỗi tay cầm một kiếm và miệng ngậm một kiếm.[ch. 3, 5, 28] Để thực hiện lời hứa với cô bạn và đối thủ đã khuất thời thơ ấu Kuina, cậu đặt mục tiêu đánh bại Mihawk "Mắt Diều Hâu" và trở thành kiếm sĩ giỏi nhất thế giới.[ch. 5, 50] Cậu đi chu du khắp biển cả nhằm truy tìm Mihawk và kiếm sống bằng nghề thợ săn hải tặc, trở nên khét tiếng với biệt hiệu"Thợ săn Hải tặc" Zoro (海賊狩りのゾロ Kaizoku-Gari no Zoro?).

Sau cùng, cậu vướng vào mâu thuẫn với Helmeppo - cậu con trai hư của một sĩ quan hải quân. Nhằm ngăn thường dân vô tội bị tổn thương, Zoro chấp nhận bản thân bị giam giữ tạm thời, còn Helmeppo thì âm mưu trừ khử cậu. Zoro được Luffy cứu khỏi bị hành quyết, đổi lại cậu trở thành đồng đội đầu tiên của Luffy. Lúc ấy, Zoro có nói rõ rằng cậu sẽ quay lưng chống lại thuyền trưởng nếu như cậu ta xâm phạm ranh giới giữa Zoro và giấc mơ của cậu.[ch. 26] Tuy nhiên, Zoro ngày càng yêu quý băng của mình và sau không ít lần thất bại trong việc bảo vệ băng, cậu đã thay đổi ưu tiên và thuyết phục Mihawk nhận cậu làm đệ tử.[ch. 51f., 485, 597] Zoro có thể sử dụng cả ba loại Haki và có thể sử dụng dạng cấp cao của cả Haoshoku và Busoshoku Haki. Cậu cũng nổi tiếng với khả năng tìm đường tệ hại và thường xuyên bị lạc đường.

Ở bản anime, diễn viên lồng tiếng cậu là Nakai Kazuya.[1] Ở bản chuyển thể tiếng Anh của 4Kids, tên của cậu được phát âm thành Roronoa Zolo, và người lồng tiếng cậu là Marc Diraison.[2] Các bộ phim của VIZ cũng gọi cậu là "Zolo". Ở bản chuyển thể Anh ngữ của Funimation, người lồng tiếng cậu là Christopher Sabat.[3]

Zoro được thể hiện bởi Mackenyu ở bản chuyển thể người đóng của One Piece.[4]

Nami[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được cựu thủy thủ hải quân và nông dân trồng quýt Belle-Mère thu nhận và nuôi dưỡng, Nami (ナミ?) đã chứng kiến mẹ mình bị tên hải tặc Arlong sát hại; băng của y còn chiếm đóng hòn đảo của họ và lấy cống vật từ người dân trên đảo. Sau khi đạt thỏa thuận làm việc cho Arlong, Nami lúc ấy vẫn là một cô nhóc, song đã là một nhà vẽ bản đồ tài năng ước mơ vẽ một tấm bản đồ thế giới hoàn chỉnh. Cô nhập băng Arlong với hi vọng sau này sẽ đủ tiền mua lại tự do cho làng của mình. Là một nữ hải tặc căm ghét hải tặc, cô vẽ bản đồ cho Arlong và đánh cắp kho báu từ những hải tặc khác, từ đó Nami trở thành một viên hoa tiêu, đạo tặc chuyên móc túi xuất sắc với biệt tài dự đoán thời tiết.[ch. 77, 95, 130] Sau khi Arlong phản bội cô và việc băng của y bị Băng Hải tặc Mũ Rơm đánh bại, Nami đã nhận lời vào băng Mũ Rơm nhằm theo đuổi ước mơ và tự nhận mình là "Miêu đạo tặc" Nami (泥棒猫のナミ Dorobō Neko no Nami?).[ch. 94f., 435]

Ở bản anime, người lồng tiếng Nami là Okamura Akemi.[5] Ở bản chuyển thể Anh ngữ của 4Kids, người lồng tiếng cô là Kerry Williams.[6] Ở bản chuyển thể Anh ngữ của Funimation, diễn viên lồng tiếng cô là Luci Christian.[7]

Nami được thể hiện bởi diễn viên Emily Rudd ở bản chuyển thể người đóng của One Piece.[4]

Usopp[sửa | sửa mã nguồn]

Thời thơ ấu, Usopp (ウソップ Usoppu?) bị cha mình là Yasopp bỏ rơi sau khi ông rời đi để vào Băng Hải tặc Tóc Đỏ. Khi bà mẹ Bachina lâm bệnh, Usopp bắt đầu kể những câu chuyện cổ tích, bày tỏ hi vọng cha mình sẽ trở về và đưa họ ra khơi. Cậu thường xuyên đi đến căn biệt thự nằm ở đỉnh đồi đồi (nơi cậu sinh sống) để ghé thăm Kaya. Ngay cả sau khi mẹ qua đời, Usopp không hề đổ lỗ cho cha vì đã bỏ đi. Bất chấp tính cách hèn nhát, cậu vẫn quyết tâm trở thành một hải tặc vĩ đại.[ch. 25, 41]

Usopp nổi bật với chiếc mũi dài - chi tiết ám chỉ rằng cậu thường xuyên nói dối. Cậu là một nhà phát minh, họa sĩ và thợ điêu khắc tài năng.[ch. 42, 106, 190] Trong chiến đấu, cậu chủ yếu dùng súng cao su để bắn ra nhiều loại đạn với độ chính xác cao, kết hợp với biệt tài nói dối và một số vũ khí khác, mang đến cho cậu phong cách chiến đấu đặc thù gọi la "Pháo thủ Usopp".[ch. 332] Nhằm hỗ trợ Băng Mũ Rơm giải cứu Nico Robin, cậu hóa trang thành một bản thể khác là "Sogeking, Vua bắn tỉa" (狙撃の王様そげキング Sogeki no Ō-sama Sogekingu?) - một tay người hùng bắn tỉa đeo mặt nạ và áo choàng màu vàng. Cuối cùng, sau khi giúp băng Mũ Rơm giải phóng Dressrosa khỏi sự thống trị của Donquixote Doflamingo, cậu trở nên khét tiếng với biệt hiệu "Thánh" Usopp (ゴッド ウソップ Goddo Usoppu?).[ch. 435]

Ở bản anime, diễn viên lồng tiếng cậu là Yamaguchi Kappei.[1] Jason GriffithSonny Strait lần lượt lồng tiếng cậu ở các bản chuyển thể Anh ngữ của 4Kids và Funimation.[3][8]

Usopp được thể hiện bởi diễn viên Jacob Romero Gibson ở bản chuyển thể người đóng của One Piece.[4]

Sanji[sửa | sửa mã nguồn]

Vốn xuất thân là hoàng tử Vương quốc Germa, Vinsmoke Sanji (ヴィンスモーク・サンジ Vinsumōku Sanji?) thường bị các anh em giỏi hơn (do cải tiến về mặt di truyền) chế giễu và bị người cha Judge vì xem anh là nỗi ô nhục. Với sự hỗ trợ của Reiju, anh chạy trốn và tìm đường tránh Germa - vương quốc nổi trên mặt biển gồm một số tàu thủy, sau khi nó tiến vào East Blue và cha anh tạo điều kiện cho vụ này.

Trong lúc làm đầu bếp thực tập trên tàu chở khách, Sanji (lúc mới chín tuổi) đứng lên phản kháng một nhóm hải tặc do Zeff "Chân Đỏ" cầm đầu. Ở cuộc gặp ấy, Sanji bị một cơn sóng lớn ập đến đẩy xuống biển. Zeff bắt chuyện với cậu vì họ chung giấc mơ tìm All Blue (オールブルー Ōru Burū?) - một vùng huyền thoại nơi các biển của East, West, North và South Blue giao nhau, chứa mọi loại cá trên thế giới. Trong lúc cùng chạy trốn, Zeff một lần nữa cứu mạng Sanji khi cho anh toàn bộ thực phẩm. Sau lần giải cứu ấy, Sanji ở cùng Zeff trong nhiều năm và giúp ông gây dựng một nhà hàng nổi trên biển mang tên Baratie (バラティエ?). Đổi lại, Zeff biến anh thành đầu bếp hạng nhất và dạy anh phong cách chiến đấu bằng cước.[ch. 5659] Lấy Zeff làm gương nên Sanji không bao giờ từ nấu bữa ăn cho một người đang đói, và anh chỉ dùng chân khi chiến để bảo vệ đôi tay nấu ăn.[ch. 48, 370] Điểm yếu của anh là phụ nữ, anh có nguyên tắc không làm tổn hại bất cứ phụ nữ nào, ngay cả khi điều đó làm nguy hiểm tới tính mạng.[ch. 403]

Cuối cùng, anh trở nên khét tiếng với biệt danh Sanji "Chân Đen" (黒脚のサンジ Kuro Ashi no Sanji?).[ch. 435] Trong hai năm tập luyện tại vương quốc Kamabakka Queendom (カマバッカ王国 Kamabakka Ōkoku?) của Emporio Ivankov, anh đã phát triển Bộ Hành Trên Không (空中歩行 (スカイ・ウォーク) Sukai Wōku?) - chiêu thức biến thể Nguyệt Bộ (月歩 Geppo?) của Lục Thức (六式 Rokushiki?), cơ bản là giúp anh chạy lướt trên không trung.[ch. 635] Sanji nhận được bộ đồ công nghệ Raid Suit riêng từ gia đình, mang lại cho anh năng lực tàng hình,[ch. 903] tuy nhiên sau đó anh đã phá hủy nó vì lo sợ làm mất nhân tình của mình.[ch. 1031]

Diện mạo chuẩn của Sanji là một người đàn ông mặc bộ com lê vừa vặn với cà vạt đen thắt chặt. Tóc anh luôn che một bên mặt và thường hút thuốc.

Ở bản anime truyền hình, người lồng tiếng Anh là Hirata Hiroaki.[9] Ở bản chuyển thể tiếng Anh của 4Kids, diễn viên lồng tiếng cho anh là David Moo.[10] Ở bản chuyển thể tiếng Anh của Funimation, giọng anh được thể hiện bởi Eric Vale.[3]

Sanji được hóa thân bởi Taz Skylar ở bản chuyển thể người đóng của One Piece.[4]

Tony Tony Chopper[sửa | sửa mã nguồn]

Tony Tony Chopper (トニートニー・チョッパー Tonī Tonī Choppā?) là một vị bác sĩ và tuần lộc nhân hóa. Sức mạnh của Trái Hito Hito no Mi (ヒトヒトの実 Hito Hito no Mi?) hệ Zoan mang lại cho câu năng lực biến thành một con tuần lộc kích thước chuẩn hoặc lai giữa tuần lộc-người.[ch. 140] Cậu còn tự chế thuốc gọi là Rumble Ball (ランブル・ボール Ranburu Bōru?), giúp cậu biến đổi nhiều dạng hơn trong ba phút.[ch. 149] Với sự hỗ trợ của Caesar Clown, Chopper có thể kéo dài thời gian biến hình lên khoảng 30 phút.[ch. 1014]

Sau khi bị bầy đàn bỏ rơi vì chiếc mũi anh dương và ăn phải Trái Ác Quỷ, Chopper được vị bác sĩ bất tài - Bác sĩ Hiriluk của Đảo Drum giải cứu. Trong chế thuốc tạo hoa anh khi tiếp xúc với tuyết, Chopper rất đau lòng khi Hiriluk mắc bệnh hiểm nghèo. Sau Hiriluk mất, Bác sĩ Kureha thu nhận cậu làm học trò. Sau khi băng Mũ Rơm đặt chân đến Đảo Drum và đưa Chopper đi cùng họ, Kureha sử dụng liều thuốc của Hiriluk để biến bầu trời phủ tuyết thành hoa anh đảo, đáp ứng sứ mệnh sinh thời của Hiriluk. Mỗi khi được khen, Chopper hành xử bối rối và đôi khi quát người khen cậu ngừng làm cậu hạnh phúc nữa.[ch. 140] Một chi tiết hài lặp lại nhiều lần (running gag) trong truyện là khi các nhân vật khác nhầm cậu là một Tanuki (lửng chó Nhật Bản) thì cậu tỏ ra bực bội, đính chính rằng mình là một Tonakai (tiếng Nhật của từ "tuần lộc").

Nữ diễn lồng tiếng Chopper là Ōtani Ikue.[11] Ikura Kazue là người lồng tiếng Tony Tony Chopper từ tập 254–263.[12] Brina Palencia lồng tiếng cậu ở các bản lồng tiếng Anh của Funimation.

Khi sáng tạo Chopper, Oda mong muốn một linh vật vừa dễ thương vừa mềm yếu.[13] Một bài đánh giá bộ manga của IGN khen ngợi Chopper là một trong những nhân vật hay nhất truyện và cho rằng cậu có thể vừa gây hài vừa làm cảm động.[14] Về tuyến truyện của Chopper, Oda muốn thể hiện rằng một người không cần phải chung huyết thống thì mới được xem là thành viên trong gia đình.[15]

Nico Robin[sửa | sửa mã nguồn]

Lớn lên Ohara (オハラ?) - nơi tạo lạc thư viện lâu đời và lớn nhất thế giới, Nico Robin (ニコ・ロビン Niko Robin?) trở thành nhà khảo cổ học năm lên tám tuổi.[ch. 218,391f.] Một hôm, cô có được sức mạnh của Trái Flower-Flower (ハナハナの実 Hana Hana no Mi?) thuộc hệ Paramecia, giúp cô tạm thời nhân bản các bộ phận của cơ thể, kể cẳ mắt và tai - xuất hiện trên khu vực gần cô.[ch. 170] Cô giấu các thầy cô và học được kiến thức cấm về cách biên dịch các phiến đá cổ đại gọi là Poneglyphs (歴史の本文 ( ポーネグリフ) Pōnegurifu?, alt. Poneglyphs) - chúng nằm rải rác khắp thế giới. Cô vào băng Mũ Rơm vì chung mục tiêu tìm kiếm phiến Real Ponegliff (真の歴史の本文 (リオ・ポーネグリフ) Rio Pōnegurifu?) hiếm - được cho là kể về lịch sử thế giới bị xóa trong Thế Kỷ Trống (空白の100年 Kūhaku no Hyaku-nen?, Void Century).[ch. 218] Tuy nhiên, Chính Phủ Thế Giới phát hiện ra những hành động cấm này ở Ohara và cử một hạm độ đến ngăn chặn họ. Chỉ có mình Robin trốn thoát khỏi cuộc truy quét tàn khốc của hải quân nhằm xóa sổ toàn bộ cư dân trên đảo, kể cả mẹ cô.[ch. 218, 395]

Được mệnh danh là "Đứa con của quỷ" (悪魔の子 Akuma no Ko?), bị tổn thương tâm lý và bị treo tiền truy nã, Robin phải sống cuộc đời nay đây may đó, không thể tin tưởng bất cứ ai.[ch. 218] Để sinh tồn, cô hợp tác với nhiều hải tặc và các kẻ sống ngoài vòng pháp luật khác. Cuối cùng, cô gia nhập tổ chức Baroque Works của Sir Crocodile, sử dụng mật danh là "Ms. All-Sunday" (ミス・オールサンデー Misu Ōrusandē?)[ch. 398] rồi trở thành phó chủ nhiệm của hội.[ch. 218] Sau khi Baroque Works sụp đổ và chẳng còn nơi nào để đi, cô vào Băng Hải Tặc Mũ Rơm[ch. 218] và ngày một quý mến họ đến mức sẵn sàng giao nộp bản thân cho Chính Phủ để cứu họ. Sau khi họ phát hiện lý do thật sự làm cô rời băng, băng Mũ Rơm tuyên chiến với Chính Phủ để đưa cô về. Cô nhận ra cuối cùng mình đã tìm thấy những người sẽ không bao giờ phản bộ cô và làm thành viên của băng.[ch. 398] Hai năm sau, Robin trau dồi năng lực Trái Ác Quỷ nhiều hơn nữa tới mức cô có thể tạo ra bản sao cơ thể hoàn chỉnh của chính mình.

Ở bản chuyển thể anime truyền hình của manga, diễn viên lồng tiếng Robin là Yamaguchi Yuriko.[16] Ở bản chuyển thể tiếng Anh của 4Kids, mật danh của cô ở Baroque Works bị đổi thành Miss Sunday và người thể hiện giọng cô là Veronica Taylor.[17] Ở bản chuyển thể tiếng Anh của Funimation, cô được lồng tiếng bởi Stephanie Young.[18]

Franky[sửa | sửa mã nguồn]

Có cha mẹ là hải tặc và bị họ bỏ rơi năm chín tuổi, Cutty Flam (カティ・フラム Kati Furamu?) đổi tên thành Franky (フランキー Furankī?) và được thợ đóng tàu Tom (người chế tác tàu Oro Jackson cho Vua Hải Tặc Gol D Roger) nhận làm học việc, cậu còn bí mật nắm giữ tài liệu chế tạo vũ khí cổ đại có sức huỷ diệt khủng khiếp.[ch. 344, 354, 427] Sau cùng, sự liều lĩnh của Franky đã tạo cơ hội cho các đặc vụ của Chính Phủ Thế Giới tìm kiếm những tài liệu này.[ch. 356] Do không thể cứu được thầy của mình, Franky bị thương nặng và chỉ sống sót nhờ tái dựng các bộ phân cơ thể qua việc tận dụng kim loại phế liệu, tự biến mình thành một người máy mạnh mẽ nạp nhiên liệu bằng cola.[ch. 336, 339, 352, 357f.] Sau trở nên khét tiếng với biệt hiệu "Người Máy" Franky (サイボーグ フランキー Saibōgu Furankī?) và để thỏa ước mơ lái con tàu do chính mình chế tác đi khắp thế giới, cậu đã đóng Thousand Sunny - một con tàu chiến nhẹ được trang bi buồm hình thang cho băng Hải Tặc Mũ Rơm và gia nhập băng.[ch. 435437]

Ở bản anime truyền hình, diễn viên lồng tiếng cậu là Yao Kazuki.[19] Patrick Seitz là người lồng tiếng cậu ở bản chuyển thể tiếng Anh của Funimation.[20]

Brook[sửa | sửa mã nguồn]

Already a pirate before the time of Roger, "Humming" Brook (ブルック Burukku?) first enters the Grand Line as a member of the music-themed Rumbar Pirates. Leaving his pet, the infant whale Laboon (ラブーン Rabūn?), at Reverse Mountain, he promises to return after sailing around the world.[ch. 487] After losing his captain "Calico" Yorki (キャラコのヨーキ Kyarako no Yōki?), Brook took over the crew as the new captain. Some time later, he is annihilated, but the power of the Paramecia-type Revive-Revive Fruit (ヨミヨミの実 Yomi Yomi no Mi?) allows him to resurrect as a skeleton.[ch. 443] Fifty years later, Brook's goal is still to fulfill his late crew's promise, and to that end he joins the Straw Hat Pirates.[ch. 459]

He is an excellent musician, who says that he can play any instrument, although he is usually seen playing the violin.[ch. 486] Brook can even influence people with his music to the point of making them fall asleep.[ch. 454] While separated from the other Straw Hats, and incognito as "Soul King" Brook, he gains world fame, filling concert halls with fans.[ch. 600] He is also a skilled fencer who uses a shikomizue (a Japanese cane sword) in battle.[ch. 454] His reduced weight allows him to jump extraordinarily high and to run across water.[ch. 443, 493] Eventually, Brook learns how to use his Devil Fruit ability to leave his skeleton body and explore his surroundings as a disembodied soul.[ch. 629]

The idea of a skeleton musician was first conceived by Oda in 2000, about the time of Laboon's introduction and more than half a decade before the first appearance of Brook.[21]

He is voiced by Chō.[22] Ian Sinclair provides his voice in the Funimation English adaptation.

Jinbei[sửa | sửa mã nguồn]

Jinbei (ジンベエ Jinbē?) is a yakuza-esque whale shark-type fish-man.[ch. 528] A master of Fish-Man Karate (魚人空手 Gyojin Karate?), he is capable of manipulating water as if it were a tangible cloth.[ch. 546] Jimbei can communicate with fish, an ability more usually associated with merfolk, and enlist the help of whale sharks.[ch. 547549] After growing up in a rough part of Fish-Man Island, Jimbei first joins the island's royal army and later the Sun Pirates; he becomes captain following the death of Fisher Tiger.[ch. 624] In exchange for the World Government granting him Warlord-status and amnesty to the Sun Pirates, Jimbei eventually disbands the crew.[ch. 69] He resigns the position to side against the Government during its war with the Whitebeard Pirates, the protectors of Fish-Man Island.[ch. 557] Two years later, he enlists the help of the Straw Hat Pirates to prevent the New Fish-Man Pirates' coup d'état against Fish-Man Island's royal family. Jimbei then turns down an invitation from Luffy to join his crew, having already aligned with the Big Mom Pirates after the death of Whitebeard.[ch. 649] After cutting ties with Big Mom, he joins the Straw Hat Pirates as the crew's helmsman.[ch. 863][ch. 976]

In the Japanese anime television series, Jimbei is initially voiced by Daisuke Gōri, later by Katsuhisa Hōki.[23][24] In the Funimation English adaptation, his voice is supplied by Daniel Baugh.

  1. ^ Người cá (Fish-men) là các sinh vật biển có hình hài con người trong One Piece, họ có nửa thân trên giống sinh vật biển. Họ đối lập với nhân ngư - tộc này lại có nửa thân trên là người và nửa thân dưới là cá.[tập 23:SBS]
  2. ^ Minks là tên gọi một chủng tộc động vật nhân hóa.
  1. ^ a b c One Piece Log Collection: East Blue (DVD) (bằng tiếng Nhật). Avex Mode. 2010.
  2. ^ a b One Piece: Volume 1: King of the Pirates (DVD). Viz Media. 2006. ISBN 978-1-59861-000-0.
  3. ^ a b c d One Piece: Collection 1 (DVD). Funimation Entertainment. 2011. ISBN 978-1-4210-2341-0.
  4. ^ a b c d e Otterson, Joe (9 tháng 11 năm 2021). 'One Piece' Netflix Live-Action Series Sets Main Cast”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2021.
  5. ^ Toei Animation (20 tháng 10 năm 1999). “俺はルフィ! 海賊王になる男だ!”. One Piece. Mùa 1. Tập 1. Fuji TV.
  6. ^ Toei Animation (9 tháng 10 năm 2004). “I'm Gonna Be King of the Pirates”. One Piece. Mùa 1. Tập 1. 4Kids TV.
  7. ^ “One Piece: Season 5, Voyage Six”. DVD Talk. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2016.
  8. ^ One Piece: Volume 3: The Teller of Tales (DVD). Viz Media. 2006. ISBN 978-1-59861-002-4.
  9. ^ One Piece Log Collection: Sanji (DVD) (bằng tiếng Nhật). Avex Mode. 2010.
  10. ^ One Piece: Volume 5: King of the Busboys (DVD). Viz Media. 2006. ISBN 978-1-59861-004-8.
  11. ^ One Piece Log Collection: Chopper (DVD) (bằng tiếng Nhật). Avex Mode. 2010.
  12. ^ Nami Tamashii no Sakebi! Mugiwara no Luffy Fukkatsu!, lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2017, truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020
  13. ^ “Meet the Real Pirate King!”. Shonen Jump. tháng 8 năm 2007.
  14. ^ Sparrow, A. E. (18 tháng 4 năm 2008). “One Piece: Volume 17 Review: Tony Tony Chopper rules!”. IGN Entertainment. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2008.
  15. ^ "Fans Chat with Oda Sensei!" Shonen Jump (VIZ) #84. Volume 7, Issue 12. December 2009. 33.
  16. ^ Valdez, Nick (8 tháng 5 năm 2021). “One Piece Stars Celebrate Their Vaccinations With Straw Hat Crew Photo”. ComicBook.com. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2021.
  17. ^ Gali, Namish (27 tháng 2 năm 2019). “Veronica Taylor shares life experiences with fans”. The Polytechnic. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2021.
  18. ^ Nealy, Devin (7 tháng 6 năm 2020). “One Piece: 10 Times The English Dub Was Actually Better Than The Original”. Comic Book Resources. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2021.
  19. ^ One Piece Log Collection: Water Seven (DVD) (bằng tiếng Nhật). Avex Mode. 2011.
  20. ^ “Anime Matsuri Announces Final Round of Guests”. Anime News Network. 13 tháng 3 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2009.
  21. ^ 『尾田栄一郎先生』 その2 ["Master Eiichiro Oda" Part 2]. Manganohi.jp (bằng tiếng Nhật). Kodansha, Shueisha, Shogakukan, Hakusensha. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2008.
  22. ^ One Piece: 10thシーズン スリラーバーク篇: Piece.01 (DVD) (bằng tiếng Nhật). Avex Mode. 2009.
  23. ^ One Piece: 13thシーズン インペルダウン篇: Piece.02 (DVD) (bằng tiếng Nhật). Avex Mode. 2011.
  24. ^ One Piece: 13thシーズン インペルダウン篇: Piece.04 (DVD) (bằng tiếng Nhật). Avex Mode. 2011.