Thành viên:Nameless9495/Lịch sử của hệ máy console (thế hệ thứ 6)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thế hệ máy console thứ 6 (thế hệ thứ 6) thường được gọi là thế hệ 128bit, để chỉ máy vi tính, máy chơi game và các trò chơi được phát hành thời kỳ đầu thế kỉ 21, từ năm 1998 đến 2005. Các hệ máy chơi game thế hệ thứ 6 gồm có Sega Dreamcast, Sony PlayStation 2, Nintendo GameCube, và Microsoft Xbox. Thế hệ bắt đầu vào ngày 27 tháng 11 năm 1998 khi máy Sega Dreamcast lần đầu tiên phát hành ở Nhật Bản,tiếp theo là máy PlayStation 2 phát hành tháng 3 năm 2000, máy GameCube và Xbox cùng năm 2001. Dreamcast dừng sản xuất vào năm 2001, GameCube vào năm 2007, Xbox năm 2009 và cuối cùng PlayStation 2 dừng sản xuất năm 2013. Thế hệ máy console thứ 7 bắt đầu vào tháng 11 năm 2005 với sự ra mắt của máy Xbox 360.[1]

Các hệ máy console[sửa | sửa mã nguồn]

PlayStation 2 đã trở thành hệ máy thành công nhất của thế hệ này, và trờ thành hệ máy chơi game bán chạy nhất mọi thời đại,với hơn 150 triệu máy được bán ra

The Sony PlayStation 2[2][3][4] đã trở thành hệ máy thành công nhất của thế hệ này, trờ thành hệ máy chơi game bán chạy nhất mọi thời đại,[5] với hơn 150 triệu máy được bán ra tính đến tháng 2 năm 2011.[6] Microsoft Xbox cũng bán được 24 triệu máy tính đến tháng 5 năm 2006,[7][8] Nintendo GameCube cũng bán được 22 triệu máy đến tháng 9 năm 2010.[9] Máy Sega Dreamcast, bị kết thúc vòng đời sớm năm 2001, cũng đã bán được 9.13 triệu máy.[10]

Thế hệ thứ 6 dần đi đến kết thúc khi máy Xbox 360 phát hành cuối năm 2005. GameCube vẫn tiếp tục được sản xuất khi máy Wii đã phát hành cuối năm 2006, nhưng đến năm 2008 cũng đã dừng sản xuất. PlayStation 2 vẫn tiếp tục được sản xuất cho đến cuối năm 2010,[11] nhờ vào thư viện game phong phú, các nhà phát triển vẫn tiếp tục hỗ trợ và giá thành hợp lý.[12]

Trong tháng 2 năm 2008, PlayStation 2 thậm chí còn bán chạy hơn cả hai hệ máy hiện đại hơn là PlayStation 3 và Xbox 360 ở Mỹ.[13][14] Game vẫn tiếp tục được phát triển cho máy PlayStation 2, Xbox, và Nintendo GameCube trong năm 2008. Máy PlayStation 2 vẫn tiếp tục được sản xuất kể cả máy chơi game thế hệ thứ 8 đầu tiền Wii U ra mắt năm 2012, giúp cho thế hệ thứ 6 trở thành thế hệ dài nhất trong lịch sử ngành game.

Dreamcast[sửa | sửa mã nguồn]

Sega Dreamcast là hệ máy đầu tiên của thế hệ[15] với một vài tính năng cạnh tranh đi trước thời đại của nó, như khả năng chơi online qua mạng internet nhờ modem gắn sẵn, và cả trình duyệt web.

Hệ máy được kì vọng là sẽ hồi sinh lại Sega,[16] sau khi thua lỗ với sự thất bại của các hệ máy Sega Saturn, Sega 32X, Genesis NomadSega CD.[17] Tuy nhiên, Dreamcast lại bị dừng sản xuất gần như ngay lập tức vì nhiều lý do. Phần lớn là do hệ máy PlayStation 2, hệ máy PlayStation 2 có khả năng chạy đĩa DVD tích hợp sẵn và lượng lớn người dùng PlayStation muốn nâng cấp lên 1 hệ máy mới có khả năng chơi lại thư viện game PlayStation cũ.[18]

Sega không thể đủ tiềm lực và khả năng để cạnh tranh với Sony, với sự thống trị của hệ máy PlayStation 2. Máy Xbox và GameCube phát hành cuối năm 2000, hệ máy của Sega được coi là lỗi thời chỉ sau 2 năm phát hành. Với những thất bại trước đó từ các hệ máy Saturn, 32X, and Sega/Mega-CD, sự thống trị của hệ máy PlayStation 2, và sự cạnh tranh từ Microsoft và Nintendo khiến Sega chấm dứt hệ máy này ngay từ đầu năm 2001,[19] bỏ rơi hoàn toàn hệ máy và rời khỏi ngành công nghiệp game với tư cách nhà sản xuất máy chơi game từ năm 2004.

PlayStation 2[sửa | sửa mã nguồn]

Với sự thành công của hệ máy PlayStation là nguyên nhân chính dẫn đến sự thống trị của hệ máy PlayStation 2, với lượng người dùng rộng lớn thu hút nhiều nhà phát triển thứ ba tham gia phát triển game cho cả hai hệ máy này. The PlayStation 2 có khả năng chơi DVDs và tương thích ngược với thư viện game của hệ máy PlayStation.[20] Sony Computer Entertainment đã nắm giữ nhiều thương hiệu quan trọng như Final Fantasy X, Grand Theft Auto III, và Metal Gear Solid 2: Sons of Liberty, giúp cho PS2 vượt xa các đối thủ. Hệ máy đã thành công nhất thế hệ này, tuy nhiên Xbox và Gamecube, cũng có thể được coi là những hệ máy tương đối thành công.[21][22]

GameCube[sửa | sửa mã nguồn]

Nintendo gặp khó khăn với sự phát triển thương hiệu từ thập kỉ 1990s, thương hiệu gắn liền với sự thân thiện cho cả gia đình. Nó tạo ra lượng người hâm mộ đông đảo và trung thành, tuy nhiên lại gặp thất bại với Xbox và PlayStation 2 với các đối tượng "người lớn" mà Nintendo có rất ít. Nintendo cũng bắt đầu tham gia thị trường game trực tuyết (với việc phát hành thử nghiệm vài tựa game có khả năng chơi mạng, như Phantasy Star Online), tăng cường khả năng kết nối cho Game Boy Advance. Vì lý do đó, Nintendo GameCube tuy thất bại về doanh số so với người tiền nhiệm, Nintendo 64, nhưng cũng tương đối thành công về mặt tài chính. Nintendo cũng nối lại được quan hệ với các bên phát triển thứ ba,[23] từ thập kỉ 1980s, khi hệ máy Nintendo Entertainment System đã có những chính sách khó khăn với các nhà phát triển thứ ba. Nhờ đó, Nintendo GameCube có những tựa game thành công nhất lại là từ những nhà phát triển thứ ba.[23]

Xbox[sửa | sửa mã nguồn]

Xbox nhận được sự hỗ trợ tài chính to lớn từ gã khổng lồ công nghệ Microsoft, nó vẫn không thể ảnh hướng đến sự thống trị của hệ máy PlayStation 2; tuy nhiên, Xbox cũng đã tạo dựng được lượng fan đông đảo và thu hút các nhà phát triển đặc biệt tại khu vực Bắc Mỹ và Châu Âu, trở thành một thương hiệu lớn dễ nhất biết trong ngành game. Dịch vụ Xbox Live rất thành công và hiệu quả khiến Sony phải triển khai hệ thống chơi mạng cho PlayStation 2. Xbox Live cũng cho Xbox lợi thế lớn trước GameCube, khi GameCube không hề có khả năng chơi mạng. Điển hình cho Xbox Live là tựa game Halo 2, cũng là game Xbox bán chạy nhất với hơn 8 triệu bản toàn cầu[24][25]

So sánh[sửa | sửa mã nguồn]

Technical comparison[3]
Tên Dreamcast PlayStation 2 GameCube Xbox
Nhà sản xuất Sega Sony Nintendo Microsoft
Hình ảnh An NTSC-U Sega Dreamcast Console and controller with VMU. Slimline (right) and Original (left) PS2 consoles Indigo GameCube and controller Xbox console with "Controller S"
Máy NTSC-U Dreamcast, tay cầm và VMU. Ở hệ máy PAL, vòng tròn logo Dreamcast màu xanh, còn ở hệ NTSC-J là màu đỏ. Trái: phiên bản PlayStation 2 đầu tiên
Right: phiên bản PlayStation 2 slim với tay cầm DualShock 2 và thẻ nhớ.
Máy GameCube, tay cầm và thẻ nhớ Máy Xbox và tay cầm dạng "Type-S"
Giá

(khi phát hành)

US$199.99
GB£199.99
US$299.99
GB£299.99
US$199.99
GB£129.99
€199.99[26]
US$299.99
GB£299.99
Giá hiện thời
Tựa game bán chạy nhất Sonic Adventure, 2.5 triệu (tháng 6 năm 2006)[27] Grand Theft Auto: San Andreas, 20.81 triệu (tháng 8 năm 2013) Super Smash Bros. Melee, 7.5 triệu (tháng 8 năm 2013) Halo 2, 8.49 triệu (tháng 8 năm 2013)
Ngày phát hành
  • JP: ngày 27 tháng 11 năm 1998
  • NA: ngày 9 tháng 9 năm 1999
  • EU: ngày 23 tháng 9 năm 1999
  • AU: ngày 14 tháng 10 năm 1999
  • JP: ngày 4 tháng 3 năm 2000
  • NA: ngày 26 tháng 10 năm 2000
  • EU: ngày 24 tháng 11 năm 2000
  • AU: ngày 30 tháng 11 năm 2000
  • JP: ngày 14 tháng 9 năm 2001
  • NA: ngày 18 tháng 11 năm 2001
  • EU: ngày 3 tháng 5 năm 2002
  • AU: ngày 17 tháng 5 năm 2002
  • NA: ngày 15 tháng 11 năm 2001
  • JP: ngày 22 tháng 2 năm 2002
  • EU: ngày 14 tháng 3 năm 2002
  • AU: ngày 14 tháng 3 năm 2002
Ngày dừng sản xuất
  • JP: ngày 28 tháng 12 năm 2012[30]
  • WW: ngày 4 tháng 1 năm 2013[29]
2007[31]
  • JP: ngày 4 tháng 6 năm 2006
  • EU: ngày 11 tháng 3 năm 2007
  • NA: ngày 2 tháng 3 năm 2009
Logo
Phụ kiện

(chính hãng)

  • VMU
  • Dreamcast chuột và bàn phím
  • Cần câu cá
  • Micro
  • Súng
  • Dreameye Camera
  • Xbox Live Starter Kit
  • Xbox Media Center Extender
  • DVD Playback Kit
  • Xbox Music Mixer
  • Memory Unit (8 MB)
  • Logitech Wireless Controller (2.4 GHz)
  • More...
CPU 200 MHz SuperH SH-4 294 MHz MIPS "Emotion Engine" 299 MHz later models 485 MHz PowerPC "Gekko" 733 MHz x86 Intel Celeron/PIII Custom Hybrid
GPU 100 MHz NEC/VideoLogic PowerVR CLX2 147 MHz "Graphics Synthesizer" 162 MHz ATI "Flipper" 233 MHz Custom Nvidia NV2A
RAM Main RAM 16 MB SDRAM
Video RAM 8 MB
Sound RAM 2 MB
Main RAM 32 MB dual-channel, RDRAM
Video RAM 4 MB eDRAM
Sound RAM 2 MB
Main RAM 24 MB 1T-SRAM, 16 MB DRAM
Video RAM 3 MB embedded 1T-SRAM
64 MB unified DDR SDRAM
Âm thanh Stereo audio, with: 5.1 Surround sound audio, with: Stereo audio, with: Stereo audio, with:
Ổ đĩa CD, GD-ROM DVD, CD Nintendo GameCube Game Disc DVD, CD
Cổng ra Video VGA (RGBHV), SCART (RGBS), S-Video, composite Component (YPBPR, RGsB), VGA (RGsB; progressive scan games/PS2 Linux only), SCART (RGBS), S-Video, composite Component (YCBCR), SCART (RGBS; PAL consoles only), S-Video (NTSC consoles only), composite VGA (RGBHV), component (YPBPR), SCART (RGBS), S-Video, composite
Khả năng chơi mạng Sega Net (2000–2002), Dreamarena (2000-2003) Non-unified services (2002–2016) Non-unified services (2003-2009) Xbox Live (2002–2010)
Khả năng tương thích ngược
PlayStation
Hệ điều hành SegaOS, Windows CE, KallistiOS Proprietary OS, PS2 Linux Proprietary OS, Gamecube Linux Xbox Music Mixer
DVD Playback Kit, Xbox Linux
Phần mềm người dùng Homebrew possible via KallistiOS, Windows CE, Katana (the latter two are illegal in the homebrew community) Yabasic software and limited Linux OS. Homebrew also possible via both modchips and softmods. Homebrew possible via SD card adaptersSD media launchers Via Softmods and/or modchips; modified Windows CE 2.x, Linux

Doanh số toàn cầu[sửa | sửa mã nguồn]

Console Units sold
PlayStation 2 155 triệu (as of ngày 31 tháng 3 năm 2012)[32][33]
Xbox 24 triệu (as of ngày 10 tháng 5 năm 2006)[7][8]
GameCube 22 triệu (as of ngày 30 tháng 9 năm 2010)[9]
Dreamcast 9.13 triệu (as of ngày 6 tháng 9 năm 2002)[10]

Các hệ máy khác[sửa | sửa mã nguồn]

Những hệ máy này được sản xuất hàng loạt, như 4 hệ máy dưới đây. Tuy nhiên, ít khi được biết đến, doanh số rất kém, và không có sự công nhận phát hành rộng rãi.

Các hệ máy cầm tay[sửa | sửa mã nguồn]

Trong suốt thế hệ thứ 6, thị trường máy chơi game cầm tay được mở rộng với nhiều nhà sản xuất. Nintendo vẫn giữ vai trò thống trị trong thị trường này với máy Game Boy Advance phát hành năm 2001, với rất nhiều cải tiền từ máy Game Boy. Hai lần tái thiết kế, máy Game Boy Advance SP năm 2003 và máy Game Boy Micro năm 2005. Hệ máy Game Boy Advance đã bán được 81.51 triệu máy tất cả các phiên bản trên toàn cầu tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2010.[9]

Một điểm mới trên thị trưởng là các nhà sản xuất không "chuyên game" đã đưa game vào thiết bị của họ như một tính năng cộng thêm, kể đến như điện thoại di động, máy nghe nhạc MP3, MP4, máy PDA. Thiết bị đầu tiên khởi xướng trào lưu này là điện thoại Nokia's N-Gage, phát hành năm 2003 với chức năng chính vẫn là một chiếc điện thoại. Tái thiết kế vào năm 2004 đổi tên thành N-Gage QD. Máy tiếp theo, máy Zodiac từ Tapwave, phát hành năm 2004; chạy hệ điều hành Palm OS, tập trung vào khả năng chơi game và phát nhạc, nhưng không nhận được nhiều chú ý vì sự khó phát triển của hệ điều hành Palm OS.

Với nhiều máy PDA xuất hiện trên thị trường, ranh giới giữa thiết bị cá nhân và thiết bị chơi game đã dần biến mất. Các máy PDAs có phần cứng rất mạnh so với các máy handheld và gần như không bị giới hạn bởi cấu hình, tuy nhiên PDAs thường thiết kế để hướng tới tầng lớp doanh nhân, khá đắt đỏ và thiếu đi sự hỗ trợ từ các nhà làm game để cạnh tranh với các hệ máy handheld truyền thống.

Bảng so sánh các hệ máy Handheld[sửa | sửa mã nguồn]

Tên Game Boy Advance / Advance SP / Micro N-Gage / QD Tapwave Zodiac
Nhà sản xuất Nintendo Nokia Tapwave
Console


Từ trái sang phải: Game Boy Advance, Game Boy Advance SP, Game Boy Micro


Từ trái sang phải: N-Gage, N-Gage QD

Ngày phát hành Game Boy Advance:
  • JP: ngày 21 tháng 3 năm 2001
  • NA: ngày 11 tháng 6 năm 2001
  • PAL: ngày 22 tháng 6 năm 2001

Game Boy Advance SP:
  • JP: ngày 14 tháng 2 năm 2003
  • NA: ngày 23 tháng 3 năm 2003
  • PAL: ngày 28 tháng 3 năm 2003

Game Boy Micro:
  • JP: ngày 13 tháng 9 năm 2005
  • NA: ngày 19 tháng 9 năm 2005
  • AU: ngày 3 tháng 11 năm 2005
  • EU: ngày 4 tháng 11 năm 2005
N-Gage: ngày 7 tháng 10 năm 2003
N-Gage QD: ngày 26 tháng 5 năm 2004
Zodiac:
  • NA: ngày 1 tháng 11 năm 2003
  • EU: ngày 25 tháng 10 năm 2004
Ngày dừng sản xuất 2006 ngày 26 tháng 7 năm 2005
Logo
Giá phát hành GBA:
Japan: ¥9,800
North America: US$99.99 (tương đương $16.525,32 năm 2022)
Europe: ?

GBA SP:

Japan: ¥12,500
North America: US$99.99 (tương đương $15.906,51 năm 2022) / CA$149,99 (Error when using {{Inflation}}: |index=CA (parameter 1) not a recognized index.)
Europe: €129,99
Australia: AU$199,99 (tương đương $28.694,22 năm 2022)

GB Micro:

Japan: ¥?
North America: US$99.99 (tương đương $14.982,31 năm 2022) / C$?
Europe: €?
N-Gage:
North America: US$299.99 (tương đương $47.722,72 năm 2022)
Europe: €289.99 / £229.99 (tương đương £38.683,51 năm 2021)

N-Gage QD:

North America: US$179.99 (tương đương $27.886,4 năm 2022)
Europe: €229.99
Zodiac:
North America: US$299.99 (tương đương $47.722,72 năm 2022)
Europe: €? / £270 (tương đương £440 năm 2021)

Zodiac 2:

North America: US$399.99 (tương đương $63.630,83 năm 2022)
Europe: €? / £330 (tương đương £540 năm 2021)
Media Game Boy Advance băng đặc biệt MultiMediaCard (MMC)
Best-selling game Pokémon Ruby and Sapphire, 13 triệu bản (tính đến ngày 25 tháng 11 năm 2004)[34] ? ?
Phụ kiện
(chính hãng)
Hệ điều hành Symbian S60 Palm OS
CPU 16.8 MHz, 32-bit, ARM7TDMI với bộ nhớ nhúng 104 MHz, 32-bit, RISC dựa trên bộ xử lí ARM9 200 MHz, 32-bit, Motorola i.MX1 ARM9 processor

Hệ điều hành Symbian S60 CPU 16,8 MHz, 32 bit, ARM7TDMI với bộ nhớ nhúng 104 MHz, 32 bit, RISC dựa trên bộ xử lý ARM9 200 MHz, 32 bit, Motorola i.MX1 ARM9

Bộ nhớ 32 kilobyte + 96 kilobyte VRAM (bên trong CPU), 256 kilobyte WRAM bên ngoài CPU) 16 megabyte RAM, 16 megabyte ROM (có thể tốn 3.4 MB để lưu trữ)
Âm thanh Âm thanh nổi với:
  • Bộ xử lid 8-bit DAC, capable of either streaming wave data or outputting wave samples processed and mixed in software
  • Two square wave voices
  • One programmable WS voice
  • One white noise generator
  • Optional sampling through the WS channel
Stereo audio (using headphones), with:
  • Support for Standard MIDI, SP MIDI and AMR audio
16-bit PCM stereo (can play back most audio codecs)
Interface
  • D-pad
  • Four face buttons
  • Two shoulder buttons
  • D-pad
  • Numbered keypad
  • Music player, Radio and Menu hotkeys
  • Dial and hang up buttons
  • Four other face buttons
  • Tai nghe
  • Cần điều hường Analog
  • "Home" Nút
  • Five other face buttons
  • Two shoulder buttons
  • Nút Bluetooth
  • Touchscreen
Kích thước GBA: 144.5 × 24.5 × 82 mm (5.69 × 0.96 × 3.2 inches)
GBA SP: 84 × 82 × 24.4 mm (3.3 × 3.23 × 0.96 inches)
GB Micro: 50 × 101 × 17.2 mm (2 × 4 × 0.7 inches)
N-Gage QD: 70 mm (2,8 in) (h) 134 mm (5,3 in) (w) 20 mm (0,79 in) (d)
N-Gage QD: 118 mm (4,6 in) (w) 68 mm (2,7 in) (h) 22 mm (0,87 in) (d)
142 mm (5,6 in) (w) 79 mm (3,1 in) (h) 14 mm (0,55 in) (d)
Trọng lượng GBA: 140 g (4,9 oz)
GBA SP: 142 g (5,0 oz)
GB Micro: 80 g (2,8 oz)
N-Gage: 137 g (4,8 oz)
N-Gage QD 143 g (5,0 oz)
180 g (6,3 oz)
Online service N-Gage Arena
Khả năng tương thích ngược Game Boy, Game Boy Color (chỉ GBA và GBA SP) N/A N/A
Độ phân giải 240 × 160 176 × 208 480 × 320
I/O
Lưu trữ Tốn 3.4 MB, MMC SD card expansion
Thời lượng pin GBA: 15 tiếng
GBA SP: 10 tiếng với đèn nền bật, 18 tiếng nếu tắt đèn nền
GB Micro: 5 tiếng với đèn và âm thanh cao nhật, 8 tiếng với thiết lập mặc định
N-Gage: 2 tiếng liên tục
N-Gage QD: 4 tiếng liên tục
4 tiếng chơi liên tục, 6 tiếng chơi nhạc
Doanh số (tất cả các phiên bản) Toàn cầu: 81.51 triệu (as of ngày 30 tháng 9 năm 2010)

Japan: 16.96 triệu
Americas: 41.64 triệu
Khác: 22.91 triệu

Toàn cầu: 3 triệu (as of ngày 30 tháng 7 năm 2007) Toàn cầu: 200,000

Một số hệ máy khác[sửa | sửa mã nguồn]

Trào lưu[sửa | sửa mã nguồn]

Thị trường[sửa | sửa mã nguồn]

Những nhà phát triển lớn như Activision, Electronic Arts, và Ubisoft thực hiện chiến lược đa hệ, phát hành các game của họ trên PC, và tất cả các máy console chính, thậm chí cả máy handhelds. Thế hệ thứ 6 là thế hệ đầu tiên mà game trên PC và console cùng phát triển tương đương, vượt xa thị trường game arcade cũ tính trên cả nền tảng đồ họa và doanh thu. Những hệ máy như Dreamcast, Xbox có cầu trúc rất gần với các thiết bị PC nên việc port game qua lại giữa các hệ máy cũng trở nên dễ dàng hơn.

Những game gây tranh cãi[sửa | sửa mã nguồn]

Không phải lần đầu game có nhiều tranh cãi và chỉ trích, nhưng thế hệ này bắt đầu được sự chú ý lớn của đại chúng về những yếu tố như ngôn từ xúc phạm, khiêu dâm, tình dục, phạm pháp, bạo lực, sử dụng các chất gây nghiện cùng các chủ đề gây tranh cãi khác như tôn giáo, chính trị, chủng tộc.

Thế hệ này cũng được các nhà lập pháp chú ý đến với những tựa game nổi tiếng như Rockstar Games' ManhuntGrand Theft Auto games (Grand Theft Auto IIIGrand Theft Auto: Vice City) với bạo lực kích động và khiêu dâm nghiêm trọng, tựa game Grand Theft Auto: San Andreas thậm chí còn được gắn mác game chỉ dành cho người lớn và tạm ngừng bán vì phát hiện ra nội dung tình dục được ẩn bởi bản Hot Coffee mod.

Giả lập và những game cũ[sửa | sửa mã nguồn]

Với sức mạnh cấu hình ngày càng tăng và sự ưa chuộng giả lập các hệ máy cũ, thế hệ thứ 6 này bắt đầu cho kỉ nguyên giả lập. Nhiều game cũ từ các hệ máy trước được tái phát hành với nâng cấp đồ họa hoặc âm thanh. Những game được giả lập thường là game của các hệ máy Nintendo Entertainment System, Super Nintendo Entertainment System, Mega Drive/Genesis, máy PlayStation (máy PS2 có thể tự chơi game PS1), và Nintendo 64.

Cũng trong thế hệ này, máy cầm tay có sức mạnh tương đương các hệ máy console cũ. Nintendo tái phát hành game của NES và SNES cho hệ Game Boy Advance, như phiên bản làm lại của Final Fantasy I & II: Dawn of SoulsMetroid: Zero Mission.

Sự phát triển của game trực tuyến[sửa | sửa mã nguồn]

Game trực tuyến, là độc quyền cho PC giờ đã phát triển mạnh trên các hệ máy console. Máy Dreamcast đi đầu với modem gắn trong, trình duyện web và khả năng chơi online một số tựa game. Máy PlayStation 2, XboxGameCube cũng tương thích chơi game trực tuyến. Xbox đưa ra dịch vụ Xbox Live với phí 50$ một năm chỉ tương thích với internet tốc độ cao, là một dịch vụ tuyệt vời được ưa chuộng đặc biệt ở thị trường phương Tây, thích hợp với các tựa game bắn súng góc nhìn thứ nhất. PlayStation 2 lại để khả năng chơi trực tuyến cho từng nhà phát triển game quản lý và khai thác tự do, tuy nhiên với những nhà phát triển nhỏ, trải nghiệm người dùng sẽ rất khó chịu. Dòng game SOCOM là game trực tuyến phổ biến nhất trên PS2.[35] GameCube không hề có khả năng chơi trực tuyến với các tựa game của Nintendo, chỉ có tựa game Phantasy Star OnlineHomeland có khả năng chơi trực tuyến, tuy nhiên lại cần thêm phụ kiện gắn ngoài.

Sát nhập[sửa | sửa mã nguồn]

Rất nhiều nhà phát triển được mua lại hoặc sát nhập bởi đối thủ: Microsoft mua lại Rare năm 2002; Square sát nhập với Enix trờ thành Square Enix năm 2003; Sega sát nhập với Sammy trở thành Sega Sammy Holdings năm 2004; Konami mua lại phần lớn Hudson Soft; Namco sát nhập Bandai để thành Bandai Namco Holdings năm 2006.

Trò chơi[sửa | sửa mã nguồn]

Những dòng game đáng chú ý[sửa | sửa mã nguồn]

  • Final Fantasy X (PS2) của Square (nay là Square Enix) tái lập và nâng cấp rất nhiều điểm mạnh từ các game trước trong series, trở thành tựa game RPG bán chạy nhất trên console và thành công nhất trên hệ máy PS2.[36]
  • Forza Motorsport (Xbox) của Turn 10 StudiosMicrosoft Studios thu được đánh giá tích cực, định nghĩa lại dòng game đua xe.[37][38][39]
  • God of WarGod of War II (PS2) của Santa Monica StudioSony Computer Entertainment (SCE) đều được đánh giá cao bởi đồ họa, cách chơi, âm thanh và cốt truyện. Đây là dòng game có tính bạo lực cao và khiêu dâm nặng nề.
  • Grand Theft Auto III, Vice City,và Grand Theft Auto: San Andreas (PS2, Xbox, PC) của Rockstar định nghĩa thể loại "sandbox", người chơi có thể tự do khám phá trong một không gian rộng lớn mà không bị cản trở. Tuy nhiên vì bối cảnh tội phạm bạo lực, chủ đều khiêu dâm và tình dục cũng gây nhiều tranh cãi.
  • Half-Life 2 (PC, Xbox) của Valve Corporation được đánh giá rất cao bởi đồ họa, cách chơi, tương tác vật lý, cốt truyện, được trao giải "Game hay nhất mọi thời đại" tại Spike Video Game Awards.
  • Halo: Combat Evolved (Xbox, PC) của Bungie và Microsoft Studios là tựa game thành công nhất trên hệ máy Xbox. Halo 2 là tựa game bán chạy nhất lịch sử hệ máy [40] khiên dịch vụ Xbox Live hỗ trợ nó đến tận năm 2010.
  • Jet Set Radio (DC) của SmilebitSega nhận được đánh giá cao nhờ cách chơi, âm nhạc và đồ họa cel-shaded. Nó tạo ra trào lưu sử dụng đồ họa cel-shaded trong game.[41]
  • The Legend of Zelda: The Wind Waker (GC) của Nintendo EAD là một trong những tựa game được đánh giá cao nhất mọi thời đại. Nhận được đến điểm số 96% trên Metacritic và điểm tuyệt đối của Famitsu, đây là tựa game Zelda được đánh giá cao thứ hai của dòng game.
  • Metal Gear Solid 2: Sons of Liberty (PS2, Xbox, PC) và Metal Gear Solid 3: Snake Eater (PS2) của Konami Computer Entertainment JapanKonami nâng cấp lối chơi nhập vai hành động lén lút và nhận được đánh giá rất cao, cùng với đó là cốt truyện hấp dẫn.
  • Metroid Prime (GC) của Retro Studios và Nintendo là một trong những tựa game có điểm số cao nhất mọi thời đại, với chấm điểm 97 tren Metacritic.[42][43] Được nhận xét là một trong những tựa game hay nhất mọi thời đại
  • NFL 2K1 (DC) by Visual ConceptsSega was the first football game to feature online play.[44]
  • Phantasy Star Online (DC, GC, Xbox, PC) by Sonic Team and Sega, the first console MMORPG, has been cited as one of the most groundbreaking and influential games of the generation.[45]
  • Pokémon Ruby and Sapphire (GBA) Despite the fact that the games received some backlash due to connectivity issues with the older games, these games still received positive reception for adding much more innovation to the Pokémon series. They eventually became the best selling games for the Game Boy Advance,[46][47] selling roughly over 16.22 million copies worldwide as of October 2013.[48]
  • Resident Evil 4 (GC, PS2, PC) by Capcom Production Studio 4Capcom revamped the franchise in a new, more action-oriented direction.[49] It remains one of the highest rated games of the generation.
  • Rez (DC, PS2) by United Game Artists and Sega received significant critical acclaim.[50][51] The game, about a computer virus named Swayzak invading the mainframe of a computer, has been cited as one of the greatest videogames ever made[52][53] and a significant example of videogames as art.[54]
  • Shadow of the Colossus (PS2) by Team Ico and SCE has been frequently cited as an example of videogames as art.[55][56][57] Many reviewers consider the game's soundtrack to be one of its greatest aspects. In addition to Roar of the Earth won the award for "Soundtrack of the Year" in the US-based video game magazine Electronic Gaming Monthly,[58] GameSpot commented that the musical score conveyed, and often intensified, the mood of any given situation,[59] while it was described as "one of the finest game soundtracks ever" by a reviewer from Eurogamer.[60]
  • Shenmue (DC) by Sega AM2 and Sega is regarded as a major step forward for 3D open-world gameplay,[61][62][63][64][65] introduced the quick time event mechanic in its modern form,[66] and has been widely cited as one of the best and most influential games ever made.[67][68][69][70]
  • Sonic Adventure (DC, GC, PC) by Sonic Team was the first main Sonic the Hedgehog game to feature 3D gameplay. It received a perfect score from Computer and Video Games, who called it one of the greatest video games of all time,[71] and GamesRadar wrote it "changed the gaming world forever".[72]
  • SoulCalibur (Arcade, DC) by Project SoulNamco is the first fighting game on any platform to have ever received a perfect 10.0 rating from IGN[73] and GameSpot[74] and also a perfect 40/40 (second of only fifteen games)[75] from Japanese gaming magazine Famitsu. Soul Calibur II was a bestseller on all three consoles it was released, and was notable for featuring exclusive characters for every version released.
  • Star Wars: Knights of the Old Republic (PC, Xbox) by BioWareLucasArts has been cited as one of the best games of the generation[76] and greatest games of all time.[77][78] Its sequel, Star Wars Knights of the Old Republic II: The Sith Lords, also garnered critical acclaim.[79]
  • Super Mario Sunshine (GC) by Nintendo Entertainment Analysis & Development (Nintendo EAD) and Nintendo is the highest-rated 3D platformer of the generation with a Metacritic score of 92/100.[80] This game was the first 3D Super Mario game which included the ability to ride Yoshi.[81] This feature reappeared in Super Mario Galaxy 2 where the Twisty Trials Galaxy in World S is another recurring theme from Super Mario Sunshine, based on one of the missions "The Secret of Ricco Tower".[82]
  • Super Smash Bros. Melee (GC) by Hal Laboratory and Nintendo went on to become one of the most popular and most played games on the GameCube console which is a widely played competitive video game and has been featured in several high-profile tournaments.[83] Many consider it to be the most competitively viable game in the series.[84][85][86]
  • Tekken Tag Tournament (PS2) was a launch title for the PlayStation 2, and was regarded as one of the best ever,[87] and is also considered one of if not the most significant entry to the Tekken series. Throughout the sixth generation, Tekken Tag was the fighting game of choice for many tournaments. The game was also praised for its graphical leap from the arcade on to the then, new generation of consoles, on the PlayStation 2.[88]
  • Virtua Fighter 4 (Arcade, PS2) by Sega AM2 and Sega received universal critical acclaim, with a Metacritic score of 94/100, and is considered to have set a new standard for 3D fighting games.[89][90] In Japan, the PlayStation 2 version sold 356,897 during its first week on sale in early 2002.[91] Worldwide sales of the PS2 port exceeded 1.5 million by June 2002.[92] On release, Famitsu magazine scored the PlayStation 2 version of the game a 37 out of 40.[93]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “PlayStation 2 manufacture ends after 12 years”. The Guardian. ngày 4 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2013.
  2. ^ “PlayStation 2: PlayStation 2 System Specs at Ps2Fantasy.com”. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  3. ^ a b “Console Specs”. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  4. ^ “The Dreamcast & PlayStation 2 Comparison Page”. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  5. ^ “SONY COMPUTER ENTERTAINMENT ASIA STARTS ITS PLAYSTATION BUSINESS IN REPUBLIC OF INDONESIA”. SCEI. ngày 8 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  6. ^ “PLAYSTATION 2 SALES REACH 150 MILLION UNITS WORLDWIDE”. Sony Computer Entertainment. ngày 14 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  7. ^ a b “Gamers Catch Their Breath as Xbox 360 and Xbox Live Reinvent Next-Generation Gaming”. Xbox.com. ngày 10 tháng 5 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
  8. ^ a b “Xbox”. A Brief History of Game Console Warfare. BusinessWeek. ngày 8 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
  9. ^ a b c “Consolidated Sales Transition by Region” (PDF). Nintendo. ngày 27 tháng 10 năm 2010. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  10. ^ a b Zackariasson, Peter; Wilson, Timothy L.; Ernkvist, Mirko (2012). “Console Hardware: The Development of Nintendo Wii”. The Video Game Industry: Formation, Present State, and Future. Routledge. tr. 158. ISBN 978-1138803831.
  11. ^ Yin-Poole, Wesley (tháng 2 ngày 14, 2011). “PlayStation 2 ships over 150 million”. Eurogamer. Truy cập tháng 2 ngày 14, 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate=|date= (trợ giúp)
  12. ^ Lewis, Nick (ngày 19 tháng 12 năm 2007). “Gaming's best releases promise hours of fun – and mayhem”. Calgary Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  13. ^ Shiau, Brian (ngày 13 tháng 3 năm 2008). “the simExchange – February 2008 NPD Data | The Video Game Prediction Market”. Simexchange.com. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2013.
  14. ^ Luis, J. (ngày 26 tháng 2 năm 2014). “Sales Charts – February 2008”. GAMbIT Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  15. ^ Kent, Steven L. (ngày 18 tháng 2 năm 2004). “PlayStation 2 Timeline”. GameSpy. IGN. tr. 2. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2008. 1998 – November 27: Sega initiates the next generation of game consoles by launching Dreamcast in Japan...
  16. ^ “Sonic Adventure”. Computer and Video Games (209): 12. tháng 3 năm 1999.
  17. ^ Marriott, Scott. “Sega Genesis Nomad”. AllGame. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  18. ^ Whitehead, Dan (ngày 2 tháng 1 năm 2009). “Dreamcast: A Forensic Retrospective”. Eurogamer. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2014.
  19. ^ Geek Dave (ngày 3 tháng 12 năm 2015). “Video Game Firsts - Sega Dreamcast”. www.warpedfactor.com.
  20. ^ What Ever Happened To The Dreamcast?. TechnoBuffalo. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2013.
  21. ^ “Playstation 2 is 'console champion'. BBC. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2002.
  22. ^ Twist, Jo. “Decade of dominance for PlayStation”. BBC. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2004.
  23. ^ a b Reese, Mark (19 tháng 11 năm 2011). “Feature: Remembering the GameCube”. www.nintendolife.com. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2018.
  24. ^ Chris Morris (ngày 9 tháng 5 năm 2006). “Grand Theft Auto, Halo 3 headed to Xbox 360”. CNN. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2007.
  25. ^ Asher Moses (ngày 30 tháng 8 năm 2007). “Prepare for all-out war”. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2007.
  26. ^ “BBC – GameCube gets midnight launch”. BBC. ngày 2 tháng 5 năm 2002. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2011.
  27. ^ Daniel Boutros (ngày 4 tháng 8 năm 2006). “sega smash pack”. A Detailed Cross-Examination of Yesterday and Today's Best-Selling Platform Games. Gamasutra. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2007.
  28. ^ Sam Pettus, David Munoz, Kevin Williams, Ivan Barroso (2013). Service Games: The Rise and Fall of SEGA: Enhanced Edition. tr. 455. ISBN 9781311080820.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  29. ^ “PlayStation 2 manufacture ends after 12 years”. Famitsu. ngày 31 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2013.
  30. ^ “BBC News - Sony stops production of PlayStation 2”. Bbc.co.uk. ngày 31 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2013.
  31. ^ “Nintendo ends GameCube support”. MCV. ngày 22 tháng 2 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  32. ^ “Slimmer, Lighter PlayStation 3, new PlayStation Network services, plenty of content and a great value price” (PDF) (Thông cáo báo chí). Sony Computer Entertainment. ngày 18 tháng 8 năm 2009. tr. 2. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 20 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  33. ^ “PlayStation2 Worldwide Hardware Unit Sales”. Sony Computer Entertainment. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2013. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  34. ^ “Consolidated Financial Statements” (PDF). Nintendo. ngày 25 tháng 11 năm 2004. tr. 4. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2007.
  35. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  36. ^ “Final Fantasy X Sells Like Crazy; World Not Shocked - PS2 News at IGN”. Ps2.ign.com. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  37. ^ Perry, Douglass (ngày 4 tháng 5 năm 2005). “Forza Motorsport”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  38. ^ Chou, Che (ngày 3 tháng 5 năm 2005). “Forza Motorsport”. 1UP.com. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  39. ^ Fischer, Russ (ngày 3 tháng 5 năm 2005). “Forza Motorsport”. GameSpy. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2012.
  40. ^ 'Halo 2' clears record $125 million in first day | CNET News.com”. News.cnet.com. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2013.
  41. ^ “What Today's Video Games Could Learn from 'Jet Set Radio' | VICE | United States”. VICE (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2016.
  42. ^ “Metroid Prime on GameRankings”. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  43. ^ “Metroid Prime on Metacritic”. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  44. ^ Cork, Jeff (ngày 16 tháng 11 năm 2009). “Game Informer's Top 100 Games of All Time (Circa Issue 100)”. Game Informer. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2014.
  45. ^ Parish, Jeremy (tháng 2 năm 2010). “Phantasy Star Online”. The Decade That Was: Essential Newcomers - We close our look back at the the [sic] past 10 years with five revolutionary new games. 1UP.com. tr. 2. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp); Không cho phép mã đánh dấu trong: |work= (trợ giúp)
  46. ^ Harris, Craig. “Pokemon Sapphire Version”. IGN. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2003.
  47. ^ Harris, Craig. “Pokemon Ruby Version”. IGN. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2003.
  48. ^ Rose, Mike. “Pokemon X & Y sell 4M copies in first weekend”. Gamasutra. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2013.
  49. ^ “Gateway to Horror”. UGO Networks. ngày 17 tháng 10 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  50. ^ Anon. (ngày 29 tháng 11 năm 2001). “Rez Review”. Edge. Future plc. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2012. Originally published in Edge issue 105, Christmas 2001.
  51. ^ Simon Parkin (ngày 30 tháng 1 năm 2008). “Reviews = Rez HD // Xbox 360”. Eurogamer.
  52. ^ Sam Kennedy (ngày 29 tháng 1 năm 2008). “Rez HD (Xbox 360)”. 1UP.com. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  53. ^ Edge Staff (ngày 13 tháng 3 năm 2012). “The Untouchables: Rez”. Edge Magazine. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2014.
  54. ^ “The Art of Video Games Voting Results” (PDF). Smithsonian American Art Museum. ngày 5 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2011.
  55. ^ Edge Presents The 100 Best Videogames. Future Publishing. 2007. tr. 146.
  56. ^ Ciccoricco, Dave. (2008). “'Play, Memory': Shadow of the Colossus and Cognitive Workouts”. New Perspectives on Digital Literature. Dichtung Digital, Special Edition. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |editors= (gợi ý |editor=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  57. ^ “Okay, kids, play on my lawn”. Chicago Sun-Times. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2010. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  58. ^ “Shadow of the Colossus Electronic Gaming Monthly”. Find Articles. tháng 11 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2006. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  59. ^ Shoemaker, Brad (ngày 17 tháng 10 năm 2005). “Shadow of the Colossus for PlayStation 2 Review”. GameSpot. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2014.
  60. ^ Reed, Kristan (2005). “Review – Shadow of the Colossus”. Euro Gamer. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2006.
  61. ^ Scott Sharkey. “Top 5 Underappreciated Innovators: Five genre-defining games that didn't get their due”. 1UP.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  62. ^ Brendan Main, Lost in Yokosuka, The Escapist
  63. ^ Shenmue: Creator Yu Suzuki Speaks Out Lưu trữ 2011-01-02 tại Wayback Machine, GamesTM
  64. ^ “Yu Suzuki”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  65. ^ “The Disappearance of Yu Suzuki: Part 1”. 1Up.com. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  66. ^ Adam LaMosca, On-Screen Help, In-Game Hindrance, The Escapist
  67. ^ Readers' Picks Top 100 Games: 81-90 Lưu trữ 2013-11-03 tại Wayback Machine, IGN, 2006
  68. ^ Greatest Games of All Time, Game, ngày 22 tháng 5 năm 2008
  69. ^ 42: Shenmue, Empire, accessed ngày 25 tháng 2 năm 2011
  70. ^ Furfari, Paul (tháng 8 năm 2010). “15 Games Ahead of Their Time”. 1UP.com. tr. 2. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  71. ^ “Dreamcast Special: Sonic Adventure”. Computer and Video Games (215): 60–61. tháng 9 năm 1999. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2017. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  72. ^ Cundy, Matt; Houghton, David; Irvine, Nathan; Towell, Justin (ngày 23 tháng 6 năm 2012). “Top 7... horrendously buggy games we loved anyway”. GamesRadar. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2014. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  73. ^ “Soulcalibur Review”. IGN. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2013.
  74. ^ “Soul Calibur for Dreamcast Review – Dreamcast Soul Calibur Review”. Gamespot.com. ngày 8 tháng 9 năm 1999. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2013.
  75. ^ Gamespot "SSBB gets perfect score from Famitsu" includes list of perfect score recipients in order. Gamespot.com. ngày 9 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2013.
  76. ^ “Best Games and Movies of 2000 - 2009”. IGN. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2011. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  77. ^ Game Informer Issue #200 November 2010
  78. ^ “All-TIME 100 Video Games”. Time. Time Inc. ngày 15 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2012. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  79. ^ “Star Wars: Knights of the Old Republic II - The Sith Lords”. Gamespot.
  80. ^ “Super Mario Sunshine reviews”. Metacritic. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2014.
  81. ^ Tboy. “Super Mario Sunshine review”. GamersHell.com. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2007.
  82. ^ “Super Mario Galaxy 2 E3 09: Debut Trailer”. GameTrailers. ngày 2 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2009.
  83. ^ Why 'Super Smash Bros. Melee' Is Still the King. Wenner Media. ngày 5 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  84. ^ Myers, Andy (tháng 10 năm 2005). “Smash Takes Over”. Nintendo Power. 196: 106.
  85. ^ Beauchamp, Travis (2013). The Smash Brothers. EastPointPictures. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015.
  86. ^ Khan, Imad (ngày 13 tháng 6 năm 2014). “Will Wii U's 'Smash Bros.' win over the 'Melee' crowd?”. The Daily Dot. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2015. Right now, the competitive scene is still playing the 2001 GameCube release, Super Smash Bros. Melee. It's an excellent game, and rather amazingly suited for tournament play. The speed and mechanics allow for a lot of creativity. When Super Smash Bros. Brawl was released in 2008 for the Wii, players looked at it with confusion. It was too far removed from the fast and frantic play of Melee. Đã bỏ qua tham số không rõ |deadurl= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  87. ^ Steven Hopper (ngày 23 tháng 11 năm 2011). “Tekken Hybrid Review”. IGN. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  88. ^ Jeff Gerstmann. “Tekken Tag Tournament Review”. GameSpot. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  89. ^ “Virtua Fighter 4”. Metacritic. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  90. ^ Game Informer, May 2002, p.78: "Underneath its silky shine is a feast of fighting goodies that will change everything you have ever come to expect from this genre." cf. Game Informer, January 2004, p.64: "Absolutely ingenious....The most balanced and challenging fighting game the world has ever seen."
  91. ^ “PS2 Japanese Ranking”. Japan-GameCharts. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2015.
  92. ^ Gantayat, Anoop (ngày 11 tháng 6 năm 2002). “Hands on: Virtua Fighter 4: Evolution. IGN. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2015.
  93. ^ プレイステーション2 - バーチャファイター4. Weekly Famitsu. No.915 Pt.2. Pg.71. 30 June 2006.

Bản mẫu:Sixth generation game consoles Bản mẫu:History of Video Games