Thành viên:Phattainguyen23/Natalia Cuevas

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Natalia Cuevas
SinhNatalia Milena Cuevas Tapia
20 tháng 1, 1966 (58 tuổi)
Santiago, Chile
Nghề nghiệpCa sĩ, diễn viên hài, người giả giọng, diễn viên
Giải thưởngAPES (es) Award (1996)

Natalia Milena Cuevas Tapia (sinh ngày 20 tháng 1 năm 1966) là ca sĩ, diễn viên hài, người giả giọng, diễn viên người Chile.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Natalia Cuevas đã học nhảy tại Municipal Theatre of Santiago trong vòng 2 năm. Bà cũng tham gia vào một lớp học hát và thanh nhạc tại Học viện Alicia Puccio. Khi còn học tại trường, bà tham gia vào vài cuộc thi trên truyền hình với vai trò là ca sĩ.[1] Sau một vài lần thử, bà đã tìm cách làm việc với vai trò là nhạc trưởng tại các chương trình truyền hình của kênh Canal 13Éxito (es)Martes 13 (es).[2] Cùng lúc đó, bà hát cho các quảng cáo và là học viên của Dàn nhạc giao hưởng Đại học Chile.[1]

Bà bắt đầu bước vào con đường làm diễn viên hài kịch khi gia nhập vào nhóm Contratiempo.[2] Đầu những năm 1990, bà được mời vào chương trình hài kịch Jappening con ja (es) và xuất hiện tại đó trong 2 năm.[1] Trong chương trình, bà bắt đầu gây ấn tượng với các ca sĩ và nhân vật truyền hình khác nhau, chẳng hạn như Marta Sánchez, Eli de Caso (es), Myriam HernándezCecilia.

Năm 2001, Cuevas xuất hiện lần đầu tại Liên hoan Viña del Mar, cùng với diễn viên hài và ca sĩ Memo Bunke. Trong phần trình diễn của mình, Cuevas giả làm Paloma San Basilio, Myriam Hernández, Palmenia Pizarro và Cecilia. Cả hai nhà hài kịch nhận được Giải Seagul Vàng và Bạc.[3]

Năm sau đó, bà tham gia vào chương trình của Chilevisión Calor humano. Bà cũng được mời vào Viva el lunes một vài lần. Sau đó, bà tham gia Por fin es lunes (es), một chương trình của Canal 13 với người dẫn chương trình là Antonio Vodanovic (es)Margot Kahl.[2]

Năm 2003, bà quay lại Liên hoan Viña del Mar, lần này là tham gia một mình. Theo thói quen của mình, bà đóng vai Marjorie, một nhân vật tưởng tượng của bà mà bà đã trình diễn lần đầu tiên tại Jappening con ja.[4] Trong phần trình diễn của mình, bà cũng bắt chước Cecilia, Patricia Maldonado, Gloria Simonetti (es), Palmenia Pizarro, Shakira, Thalía và Myriam Hernandez. Cuevas đã được tặng một ngọn đuốc bạc.[5] Năm 2004, bà lại xuất hiện tại Viña del Mar, nhưng không đạt được thành công như những lần trước. Diễn viên hài đã lo lắng và bỏ thói quen của mình sớm hơn dự kiến.[6]

Năm 2012, bà tham gia vào chương trình Mi nombre es… VIP (es) của kênh Canal 13, nơi bà đóng giả ca sĩ Cecilia. Một năm sau đó, bà xuất hiện tại Antofagasta Festival (es), giả làm Tổng thống Michelle Bachelet.[7]

Bà hiện đang làm việc bắt chước và tái hiện các nhân vật trên chương trình Morandé con compañía (es).

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 3 năm 2013, bà tiết lộ thông qua cuộc phỏng vấn của chương trình Bienvenidos rằng trong thời thơ ấu của mình, bà đã bị lạm dụng tình dục bởi một linh mục. Theo Cuevas, bà đã che giấu vì "đứa trẻ như bà luôn tin rằng hắn đang kích động trong những tình huống như này, vì vậy hắn cảm thấy sợ thú nhận điều đó, bởi vì hắn nghĩ rằng hắn ta sẽ bị thách thức hoặc bị trừng phạt."[8]

Danh sách phim[sửa | sửa mã nguồn]

  • 2003 – Cesante (es), đạo diễn Ricardo Amunátegui

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

  • 1996 – APES (es) Award, cho những cống hiến của bà với hài kịch[9]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c “Natalia Cuevas hará reír a los lacustres”. Diario Llanquihue (bằng tiếng Tây Ban Nha). 5 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  2. ^ a b c “Natalia Cuevas” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Radio Cooperativa. 30 tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  3. ^ “Natalia la reina del Festival” [Natalia the Queen of the Festival]. El Mercurio de Valparaíso (bằng tiếng Tây Ban Nha). 25 tháng 2 năm 2001. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  4. ^ “Natalia Cuevas: 'Con mi pareja estamos preparando la rutina para el Festival' [Natalia Cuevas: 'With My Partner We are Preparing the Routine for the Festival']. La Cuarta (bằng tiếng Tây Ban Nha). 7 tháng 2 năm 2003. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)
  5. ^ “Provocadora presentación” [Provocative Performance]. El Mercurio de Valparaíso (bằng tiếng Tây Ban Nha). 23 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  6. ^ Gálvez, Felipe (22 tháng 2 năm 2004). “Natalia Cuevas huyó del Monstruo” [Natalia Cuevas Fled the Monster]. El Mercurio (bằng tiếng Tây Ban Nha). Viña del Mar. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  7. ^ “Yuri y Natalia Cuevas marcaron última jornada de Festival de Antofagasta” [Yuri and Natalia Cuevas Marked the Last Day of the Antofagasta Festival] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Radio Cooperativa. 16 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  8. ^ “Natalia Cuevas reveló que fue abusada por un sacerdote cuando niña” [Natalia Cuevas Reveals That She was Abused By a Priest as a Girl] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Radio Cooperativa. 18 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.
  9. ^ “Natalia Cuevas dijo que no ha podido ensayar dúo con Vodanovic” [Natalia Cuevas Says She Has Not Been Able to Rehearse Duo with Vodanovic] (bằng tiếng Tây Ban Nha). Radio Cooperativa. 21 tháng 2 năm 2003. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2018.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]