Thượng Chi Tín
| Thượng Chi Tín | |
|---|---|
| Bình Nam vương | |
Chân dung Thượng Chi Tín | |
| Thông tin chung | |
| Sinh | 1636 |
| Mất | 1680 |
| Hậu duệ | tước vị bãi bỏ |
| Thân phụ | Thượng Khả Hỷ |
Thượng Chi Tín (chữ Hán: 尚之信; 1636 – 1680), tự Đức Phù (德符), hiệu Bạch Nham (白岩), biệt danh là "Yêm Đáp công" (俺答公),[1] là kỳ nhân thuộc Hán quân Tương Lam kỳ,[2] tổ quán tại Hồng Đồng, Sơn Tây.[3] Ông là con trưởng của Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ. Hồi trẻ từng vào cung làm thị vệ, được Thuận Trị Đế ban tước vị tương đương với công tước. Rồi sau về Quảng Đông giúp cha mình xử lý quân chính trong phiên. Do ông nắm hết đại quyền nên hay bất hòa với phụ thân. Thượng Khả Hỷ thấy ông nghiện rượu và hiếu sát bèn dâng tấu lên triều đình, xin cho con thứ là Thượng Chi Hiếu kế thừa tước Bình Nam vương. Trong Loạn Tam phiên, Thượng Chi Tín nhận chức Chiêu Thảo Đại tướng quân, tước Phụ Đức Thân vương của Ngô Tam Quế và làm phản nhà Thanh. Không lâu sau, do mâu thuẫn với Ngô Tam Quế, lại nhanh chóng hàng Thanh và được phong chức Phấn Vũ Đại tướng quân, kế thừa tước Bình Nam Thân vương. Về sau do thân thích và thuộc hạ tố cáo ông có ý đồ khác nên bị Khang Hi Đế ban chết tại Quảng Châu.
Tiểu sử
[sửa | sửa mã nguồn]Thân thế và binh nghiệp
[sửa | sửa mã nguồn]Thượng Chi Tín sinh vào giờ Tuất ngày mùng 2 tháng 7 năm Sùng Đức nguyên niên (1636). Ông là con thứ của Bình Nam vương Thượng Khả Hỷ, mẹ là Hồ thị. Do người anh cả Thượng Chi Trung được nhận làm con thừa tự của bác là Thượng Khả Tiến, nên Thượng Chi Tín trở thành con trưởng theo thứ tự thừa kế.[4] Từ nhỏ, Thượng Chi Tín đã có sức khỏe và lòng dũng cảm, thích uống rượu, không câu nệ tiểu tiết.[1] Thuở niên thiếu ông theo cha đến trấn thủ nơi đóng quân.[5] Vào thời Thuận Trị, Thượng Chi Tín vào cung làm thị vệ. Do Thượng Khả Hỷ lập nhiều công lao, Thuận Trị Đế ban cho Thượng Chi Tín tước vị ngang hàng với công tước,[6] gọi ông là An Đạt (tiếng Mãn nghĩa là "huynh đệ"), vì thế ông còn được gọi là Yêm Đáp công.[1]
Năm Khang Hi thứ 10 (1671), Thượng Khả Hỷ vì tuổi cao sức yếu, dâng biểu xin cho Thượng Chi Tín trở về Quảng Đông trợ giúp việc xử lý quân chính trong phiên. Khang Hi Đế chấp thuận. Sau khi về Quảng Đông, Thượng Chi Tín tự lập doanh trại và dinh thự riêng, tự nắm quyền hành, dẫn đến nhiều mâu thuẫn với cha là Thượng Khả Hỷ.[7] Mưu sĩ của Thượng Khả Hỷ là Kim Quang không hài lòng với hành vi của Thượng Chi Tín, thường bày kế sách giúp Khả Hỉ đối phó con mình.[8] Năm Khang Hi thứ 12 (1673), theo lời khuyên của Kim Quang, Thượng Khả Hỷ dâng sớ xin triều đình cho mình cùng hai tướng lĩnh trở về quê cũ ở Hải Thành, Liêu Đông để dưỡng lão, đồng thời đề nghị cho Thượng Chi Tín kế thừa tước Bình Nam vương. [8] Khang Hi Đế nhân cơ hội này bèn tuyên bố bãi bỏ các phiên trấn, khiến cho Ngô Tam Quế dấy loạn, mở đầu cho Loạn Tam phiên. Triều đình lập tức hạ lệnh đình chỉ việc triệt phiên đối với gia tộc họ Thượng, lệnh cho Thượng Khả Hỷ vẫn tiếp tục trấn giữ Quảng Đông.[8]
Thần phục Ngô Tam Quế
[sửa | sửa mã nguồn]Sau khi Loạn Tam phiên khởi sự, Thượng Khả Hỷ vẫn trung thành với triều đình nhà Thanh. Khi Tổng binh Triều Châu là Lưu Tiến Trung hưởng ứng cuộc nổi loạn, Khả Hỉ liền sai con thứ là Thượng Chi Hiếu dẫn quân đi dẹp loạn.[8] Thượng Khả Hỷ rất bất mãn với Thượng Chi Tín vì ông này nghiện rượu, ưa giết chóc, nên dâng tấu xin cho Thượng Chi Hiếu kế thừa tước vị Bình Nam vương. Khang Hi Đế cảm kích lòng trung thành của Khả Hỉ nên chấp thuận, phong Thượng Chi Hiếu làm Bình Nam Đại tướng quân, còn Chi Tín được phong là Thảo Khấu tướng quân.[8] Việc này khiến ông không hài lòng. Để duy trì sự đoàn kết trong gia tộc, Chi Hiếu dâng biểu xin từ bỏ tước Bình Nam Thân vương.[9] Mùa xuân năm Khang Hi thứ 15 (1676), Thượng Khả Hỷ lâm bệnh nặng. Lúc đó, các tướng như Tổng binh Tổ Trạch Thanh, Tôn Khải Tông, Phó tướng thủy sư Triệu Thiên Nguyên lần lượt làm phản. Quân của Tôn Diên Linh, Cảnh Tinh Trung, và Trịnh Kinh cũng đồng loạt xâm nhập Quảng Đông, tình hình hết sức nguy cấp. Thượng Chi Tín nhân cơ hội phái binh bao vây phủ Bình Nam vương, giết Kim Quang, phế bỏ binh quyền của Thượng Chi Hiếu, rồi đầu hàng Ngô Tam Quế. Thượng Khả Hỷ định tự vẫn nhưng không thành rồi vì quá uất ức mà qua đời không lâu sau đó.[8]
Ngô Tam Quế phong Thượng Chi Tín làm Chiêu Thảo Đại tướng quân, Phụ Đức công, sau đó tấn phong làm Phụ Đức Thân vương.[8] Ngô Tam Quế lại cử Đổng Trọng Dân làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, đóng quân tại Triệu Khánh, Tạ Quyết Phù làm tướng quân, phối hợp thủy bộ để hỗ trợ lẫn nhau, nhiều lần thúc giục Thượng Chi Tín xuất binh. Chi Tín bèn dùng 10 vạn lạng vàng để hối lộ nên việc thúc giục mới chấm dứt.[8] Tuy nhiên, Thượng Chi Tín bất mãn khi thấy Ngô Tam Quế hay can thiệp vào công việc của Quảng Đông, bắt đầu bí mật mưu tính hàng Thanh. Ông cử người đến quân doanh của Đại tướng quân Lạt Bố bày tỏ ý định lập công chuộc tội. Khang Hi Đế đã ban dụ trấn an Chi Tín. Năm Khang Hi thứ 16 (1677), Thượng Chi Tín dụ bắt Đổng Trọng Dân, Tạ Quyết Phù thua trận phải chạy ra biển. Sau đó, ông phái Đô thống Thượng Chi Anh ra nghênh đón quân Thanh. Khang Hi Đế cân nhắc thiệt hơn, xét thấy Thượng Khả Hỷ có công lớn với triều đình, nên quyết định khoan dung với Thượng Chi Tín, cho phép ông kế thừa lại tước Bình Nam Thân vương, những thuộc hạ làm phản đều được khôi phục chức vụ cũ. Sau đó, Thượng Chi Tín sai sứ giả vào triều cống nạp.[10]
Đầu hàng nhà Thanh
[sửa | sửa mã nguồn]Mùa thu năm Khang Hi thứ 16 (1677), Phó Hoằng Liệt giao chiến với Ngô Thế Tông tại Quảng Châu, Thượng Chi Tín phái Tổng binh Thượng Tòng Chí cùng 3.000 quân đến tiếp viện. Khang Hi Đế ra lệnh cho Thượng Chi Tín xuất quân từ Thiều Châu, đánh chiếm Nghi Chương, Sâm Châu, Vĩnh Châu, nhưng Chi Tín lấy cớ ở Quảng Đông còn nhiều thổ phỉ để thoái thác. Khi Mãng Y Đồ tấn công Thiều Châu, Khang Hi Đế lại lệnh cho Thượng Chi Tín chuyển quân đến Ngô Châu, nhưng ông lại không tuân theo. Khi quân của Mãng Y Đồ tiến sâu vào Quảng Tây, Khang Hi Đế tiếp tục lệnh cho Thượng Chi Tín ứng cứu, nhưng ông lại lấy cớ ba quận Quảng Đông vừa mới bình định để từ chối. Sau đó, dưới sự thúc ép mạnh mẽ của Khang Hi Đế, ông mới chịu phái bộ tướng Vương Quốc Đống đến Nghi Chương.[10]
Năm Khang Hi thứ 17 (1678), sau khi Ngô Tam Quế chết vì bệnh, Thượng Chi Tín xin được tiến quân vào Quảng Tây. Khang Hi Đế bèn phong ông làm Phấn Vũ Đại tướng quân, cùng các đạo quân khác đồng loạt tiến quân.[10] Năm Khang Hi thứ 18 (1679), khi Triệu Thiên Nguyên đầu hàng nhà Thanh, Thượng Chi Tín dâng tấu xin xử tử y. Khi đại quân tiến đến Hoành Châu, Thượng Chi Tín lấy cớ bị ốm nên rút lui, chỉ phái Tổng binh Thời Ứng Vận đi theo quân của Mãng Y Đồ. Quân của Ngô Chu chiếm cứ Vũ Tuyên, Khang Hi Đế nhiều lần thúc giục Thượng Chi Tín xuất binh.[10] Mùa xuân năm Khang Hi thứ 19 (1680), Thượng Chi Tín đích thân dẫn đại quân tấn công Vũ Tuyên.[10]
Cái chết và nghi vấn
[sửa | sửa mã nguồn]Thượng Chi Tín là người đa nghi, bất hòa với em trai là Thượng Chi Hiếu. Vì Chi Hiếu thường xuyên nắm giữ binh quyền, Thượng Chi Tín không muốn em mình ở lại Quảng Châu, nên đã dâng tấu xin gạt Chi Hiếu trở về kinh để loại bỏ ảnh hưởng của y.[10] Ngoài ra, Chi Tín có hành vi bạo ngược, hễ say rượu là nổi giận, hay tuốt đao hoặc giương cung đả thương người khác,[11] thường dùng hình phạt riêng để ngược đãi thuộc hạ.[10] Tôn Khải Tông sau khi đầu hàng nhà Thanh được Khang Hi Đế khoan hồng tội chết, nhưng Thượng Chi Tín lại đánh y bằng trượng cho đến chết.
Các bộ tướng như Vương Quốc Đống, Thượng Chi Chương, Ninh Thiên Tộ đều oán hận Thượng Chi Tín, bí mật mưu tính trừ khử ông. Họ cùng Tuần phủ Kim Tuấn đều dâng sớ tố cáo Chi Tín ngông cuồng ngang ngược, vẫn còn hai lòng. Khang Hi Đế lập tức ra lệnh bắt giữ Thượng Chi Tín, áp giải về Quảng Châu. Chi Tín dâng biểu biện hộ, nhưng vẫn bị triều đình cách chức, tước bỏ vương vị, ép phải vào kinh.[12] Bộ tướng Lý Thiên Thực vì căm ghét Vương Quốc Đống đã tố cáo Chi Tín, nên cùng các em trai của Chi Tín là Chi Tiết, Chi Hoàng, Chi Anh, lấy cớ bàn việc mà dụ giết Vương Quốc Đống. Vụ việc sau đó bị phát hiện, tất cả đều bị Lãi Tháp bắt giữ.[12] Ngày 17 tháng 8 nhuận năm Khang Hi thứ 19 (1680), Thương Chi Tín bị ép tự sát, vợ con bị sung vào phủ quan. Thượng Chi Tiết, Thượng Chi Hoàng, Thượng Chi Anh và Lý Thiên Thực đều bị xử chém.[12]
Thượng Chi Tín được chôn cất tại chùa Báo Tư phía tây Quảng Châu.[13] Sau khi ông chết, phiên trấn của họ Thượng bị triều đình nhà Thanh bãi bỏ, 15 tá lĩnh thuộc quân đội của ông được sáp nhập vào Hán quân, đồn trú tại Quảng Châu.[12] Gia tộc họ Thượng được triệu về Bắc Kinh, con cháu được biên chế thành 5 tá lĩnh, thuộc Hán quân Tương Lam kỳ. Trong đó, tá lĩnh thứ năm của tham lĩnh thứ ba là huân cựu tá lĩnh, được con cháu họ Thượng thế tập.[14] Năm Khang Hi thứ 41 (1702), Khang Hi Đế ra chỉ dụ đặc biệt cho phép vợ của Thượng Chi Tín được trở về quê nhà, ban thưởng ruộng đất, nhà cửa và nô bộc, còn 5 người con gái của ông được phép tự chọn hôn phối thích hợp.[13]
Theo ghi chép trong cuốn Thượng thị tông phổ, Khang Hi Đế đã ban chiếu minh oan cho Thượng Chi Tín, thừa nhận ông là người “trung hậu chân thành”. Nội bộ gia tộc họ Thượng cũng tin rằng Thượng Chi Tín "bề ngoài thuận nghịch, kỳ thực bảo vệ địa phương". Điều này được giải thích thêm trong phần tục biên của gia phả vào giữa thời Càn Long.[3] Có học giả cho rằng gia tộc họ Thượng không dám bịa đặt sự thật trong thời kỳ Khang, Ung, Càn nên những ghi chép này có độ tin cậy nhất định.[15] Tuy nhiên, giới học giả nghiên cứu lịch sử nhà Thanh vẫn còn nhiều tranh cãi về việc liệu Thương Chi Tín thần phục Ngô Tam Quế có phải là một kế sách tùy cơ ứng biến hay không.[3]
Gia quyến
[sửa | sửa mã nguồn]- Mẹ
- Hồ thị (胡氏)
- Vợ
- Cảnh thị (耿氏), con gái của Tĩnh Nam Trung Mẫn vương Cảnh Kế Mậu.[13]
- Con trai
- Thượng Sùng Dật (尚崇溢) và ba người khác.[16]
- Con gái
- Năm người.[13] Một người trong số đó là chính thất của Đạt Lai, con trai thứ tư của Cách Thoái Nhị đẳng Thị vệ Đạt Hỗ. (Đạt Lai là cháu nội của Trấn Quốc Tướng quân Lạc Thác, chắt của truy phong Đa La Hòa Huệ Bối Lặc Trại Tang Võ, và là chít của truy phong Hòa Thạc Trang Thân vương Thư Nhĩ Cáp Tề).[17]
Tham khảo
[sửa | sửa mã nguồn]Trích dẫn
[sửa | sửa mã nguồn]- ^ a b c Lý Lâm 2006, tr. 278.
- ^ Dật Danh chủ biên 1987, tr. 6669.
- ^ a b c Lý Lâm 2006, tr. 162.
- ^ Lưu Khánh Hoa 2010, tr. 437.
- ^ Dật Danh chủ biên, tr. 6669.
- ^ Dật Danh biên soạn, Vương Trung Hàn chú thích, tr. 6669.
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1988, tr. 12856.
- ^ a b c d e f g h Triệu Nhĩ Tốn 1988, tr. 12857.
- ^ Triệu Nhĩ Tốn 1988, tr. 9415.
- ^ a b c d e f g Triệu Nhĩ Tốn 1988, tr. 12858.
- ^ Jonathan D. Spence 1991, tr. 52.
- ^ a b c d Triệu Nhĩ Tốn 1988, tr. 12859.
- ^ a b c d Lý Lâm 2006, tr. 279.
- ^ Lưu Khánh Hoa 2010, tr. 437 dẫn Bát kỳ thông chí.
- ^ Lý Trị Đình 2005, tr. 350.
- ^ Dật Danh chủ biên 1987, tr. 6673.
- ^ Ái Tân Giác La tông phả tập 15, quyển Đinh Tam, tr. 8025.
Thư mục
[sửa | sửa mã nguồn]- Jonathan D. Spence (1991). In Search of Modern China. ISBN 9780393307801.
- Triệu Nhĩ Tốn, 赵尔巽 (1988). 清史稿 [Thanh sử cảo]. Trung Hoa thư cục. ISBN 9787101007503.
- Lý Trị Đình, 李治亭 (2005). 吴三桂大传 [Ngô Tam Quế đại truyện]. Giang Tô giáo dục xuất bản xã. ISBN 9787534369520.
- Lý Lâm, 李林 (2006). 满族宗谱研究 [Mãn tộc tông phổ nghiên cứu]. Liêu Ninh dân tộc xuất bản xã. ISBN 9787807221715.
- Lưu Khánh Hoa, 刘庆华 (2010). 满族家谱序评注 [Mãn tộc gia phổ tự bình chú]. Liêu Ninh dân tộc xuất bản xã. ISBN 9787807229445.
- Dật Danh chủ biên, 佚名撰; Vương Trung Hàn chú thích, 王中翰注 (1987). 清史列传 [Thanh sử liệt truyện]. Trung Hoa thư cục. ISBN 9787101003703.