Thảo luận Thành viên:Tham Gia Cho Vui/Lưu trữ để xác nhập

Nội dung trang không được hỗ trợ ở ngôn ngữ khác.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Đánh giá đặc điểm của người Việt là những đánh giá và nhận xét về tính cách, thói quentập quán của nhiều người Việt Nam hiện đại (thế kỷ 20-21) đã được một số học giả trong và ngoài nước đưa ra trong các tác phẩm báo chí, tác phẩm văn học, các tiểu luận hay các công trình nghiên cứu xã hội họcdân tộc học. Các đánh giá này được các học giả nêu ra tại những thời điểm lịch sử khác nhau, bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, trong đó có một phần đáng kể về vai trò và tính hai mặt, ưu và nhược điểm, của tính cách, thói quen và tập quán người Việt trong tiến trình phát triển của dân tộc. Các tổng kết dựa trên các nghiên cứu còn một số khác là nhận định cá nhân hay suy diễn logic của các học giả nổi tiếng. Tính hai mặt trong tính cách của con người Việt Nam đã được đa số các học giả thừa nhận và khẳng định trong các công trình nghiên cứu về tâm lý, văn hóa, xã hộilịch sử dân tộc. Những đặc điểm phổ biến của người Việt không bất biến mà thay đổi theo sự thay đổi của những điều kiện xã hội.

Lịch sử nghiên cứu[sửa mã nguồn]

Trước thế kỷ 20[sửa mã nguồn]

Trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư” đã có ghi chép về đặc điểm tính cách của người Việt.[1] Đến thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh; các thương nhân phương Tây, giáo sĩ truyền đạo cơ đốc đã bắt đầu ghi chép về tính cách con người Việt. Đơn cử như trong sách Xứ đàng trong năm 1621 của tác giả người Ý Cristoforo Borri; ông đã có lời nhận xét và miêu tả về tính khí con người xứ Đàng Trong.[2]

Tới thời nhà Nguyễn, các sách do triều đình biên soạn “Đại Nam thực lục”, và “Việt sử thông giám cương mục” cũng có ghi chép về đặc điểm tính cách của người Việt.[1]

Thời Pháp thuộc[sửa mã nguồn]

Nghiên cứu về đặc điểm tính cách thói quen của người Việt đã được các học giả phương Tây, đặc biệt là Pháp thực hiện từ khi thực dân Pháp bảo hộ An Nam. Tự phán và tự trào tính cách của dân tộc thì phải nói đến một nhân vật nổi danh trên trường văn học và báo chí là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) ở đầu thế kỷ 20. Khi còn bỉnh bút cho tờ báo quốc ngữ ra đời sớm nhất ở Bắc Kỳ "Đăng cổ tùng báo" [3] (1907) Nguyễn Văn Vĩnh dưới bút danh giả nữ là Đào Thị Loan đã viết những bài phê phán mạnh mẽ những thói hư tật xấu như tục đốt vàng mã, thói hư danh, nạn cờ bạc... Đến khi trở thành chủ bút tờ "Đông Dương Tạp chí" trong hai năm 1913 và 1914, ông mở một chuyên mục mang tên là "Xét tật mình" lấy cảm hứng từ một câu của văn hào Pháp Emile Zola: "Nói hết, để biết hết, để chữa hết" (Tout dire pour tout connaitre, pour tout guérir) và giải thích thêm rằng: "Các nết xấu, các hủ tục của người Việt Nam ta, cần nói hết ra, đừng có giấu giếm, ai cũng biết thì mới sửa được. Luân lý là phải dạy người ta biết gốc rễ điều ác để tự nguyện tránh, mầm mống điều thiện để tự giác làm điều thiện".[4]

Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong cuốn Ðất Lề Quê Thói (Phong Tục Việt Nam) cũng có những nhận xét về tính cách phong tục người Việt.[5]

Nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dưới góc độ văn hóa được thể hiện trong các công trình nghiên cứu như "Việt Nam văn hóa sử cương" (1938) của Đào Duy Anh, "Văn minh Việt Nam" (1939) của Nguyễn Văn Huyên, "Việt Nam phong tục" (1915) của Phan Kế Bính ...

1945 - hiện nay[sửa mã nguồn]

Nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dưới góc độ khoa học lịch sử có công trình "Xã thôn Việt Nam" (1959) và "Tìm hiểu tính cách dân tộc" (1963) của Nguyễn Hồng Phong[6].

Tính cách của con người Việt Nam còn là đề tài của nhiều bài viết trên các báo và tạp chí[cần dẫn nguồn]. Nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dưới góc độ tâm lý học có các công trình nghiên cứu của Đỗ Long, Vũ Dũng, Phạm Minh Hạc như "Những nghiên cứu tâm lý học" (2007) của Đỗ Long, "Tâm lý người Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Những điều cần khắc phục" (2004) của tập thể tác giả hội viên Hội khoa học Tâm lý - Giáo dục học Việt Nam do Phạm Minh Hạc chủ biên.

Tiếp cận giá trị truyền thống của dân tộc và nghiên cứu tính cách của con người Việt Nam dưới góc độ giá trị học có tác phẩm "Về giá trị và giá trị châu Á" (2005) của Hồ Sỹ Quý, "Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam" (1980) của Trần Văn Giàu.

Nghiên cứu văn hóa Việt Nam có "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" (1996), của Trần Ngọc Thêm, "Việt Nam - văn hóa và con người" của Nguyễn Đắc Hưng...

Về nhược điểm của người Việt, ở ngoài Việt Nam, gần đây có cuốn "Tổ Quốc Ăn Năn" (2001) của ông Nguyễn Gia Kiểng và cuốn "Văn Hóa trì trệ nhìn từ Hà Nội Đầu Thế Kỷ 21" (2001) của Lê Thị Huệ nêu lên nhiều khuyết điểm của người Việt. Nhà xuất bản Thanh niên cũng xuất bản sách "Người Việt - Phẩm chất và thói hư tật xấu" (2009) của nhiều tác giả.[7][8].

Ưu điểm[sửa mã nguồn]

Đánh giá chung[sửa mã nguồn]

Một số tác giả cho rằng con người Việt Nam có những nét tính cách truyền thống như lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, coi trọng tình nghĩa, cần cù, hiếu học... đã tạo nên lịch sử đặc trưng của Việt Nam[9].

Trong tính cách nói chung của con người Việt Nam và trong từng nét tính cách nói riêng đều ẩn chứa tính hai mặt, cái tốt và cái xấu, giá trị và phản giá trị[9]. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại.[10][11]

Thái độ coi trọng cộng đồng đã trở thành một nét tính cách truyền thống đặc trưng của con người Việt Nam.[9] Mặc dù tính cộng đồng cao là một nét tính cách của con người Việt Nam có chứa đựng nhiều giá trị, song bên cạnh đó cũng có nhiều mặt hạn chế. Cộng đồng được đề cao quá mức đã ức chế sự phát triển cá tính, kìm hãm sự phát triển cá nhân vì cộng đồng không chấp nhận cá nhân đứng ngoài cộng đồng và cá tính không phù hợp với "Luật bầy đàn" của cộng đồng.

Người Việt rất coi trọng tình nghĩa [12], như tinh thần đùm bọc, giúp đỡ và quan tâm nhau. Theo nhà nghiên cứu Hồ Sỹ Quý, Việc coi trọng tình nghĩa tới mức thái quá đương nhiên không phải là giá trị tốt trong mọi hoàn cảnh. Coi trọng tình nghĩa tới mức coi thường hiến pháp và pháp luật như "phép vua thua lệ làng", "một trăm cái lý không bằng một tí cái tình" thì khó có thể chấp nhận được.

Cần cù lao động là một giá trị đạo đức nổi bật. Người Việt Nam được các dân tộc khác thừa nhận là có tinh thần hiếu học [13], cộng với bản chất thông minh, dễ tiếp thu và một nền giáo dục có truyền thống cả ngàn năm. Người Việt Nam xem giáo dục cao hơn sự giàu có và thành công và là trụ cột của văn hóa.[14]

Đánh giá theo địa phương[sửa mã nguồn]

Sách Xứ đàng trong năm 1621 của thương gia người Ý Cristoforo Borri, có ghi chép về đặc tính của người Việt ở Đàng Trong như sau[2]:

  1. Dịu dàng và lịch thiệp
  2. Trọng khách, giản dị,
  3. Đoàn kết, thành thật với nhau
  4. Hay chia sẻ, quảng đại
  5. Yêu thích và dễ tiếp thu văn hóa nước ngoài

Tác giả Peter G. Bourne trong sách Men, stress, and Vietnam xuất bản năm 1970 có đánh giá về ưu điểm khiến người miền Bắc chiếm nhiều vị trí quan trọng trong chính quyền Sài Gòn gồm[15]

  1. Làm việc chăm chỉ,
  2. Có tính kiên trì,
  3. Luôn mong muốn vượt lên phía trước.

Theo ông Mai Thanh Thế, người Việt Nam Bộ có những ưu điểm sau[16]:

  1. Tinh thần yêu quê hương đất nước, mà cao nhất là tinh thần yêu nước rất nổi trội, nhất là trước hoạ ngoại xâm.
  2. Bản lĩnh kiên cường, khí phách hiên ngang, dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài, hào hiệp và phóng khoáng, bình đẳng và ít bảo thủ.
  3. Tinh thần dân chủ và cộng đồng cao, khả năng hợp tác cao, có óc thực tế và thích ứng nhanh.
  4. Năng động, sáng tạo cao; dám nghĩ dám làm, tài ứng biến, thích rũ bỏ cái cũ không còn thích hợp với hoàn cảnh mới.
  5. Tính cá nhân, tính tự do, độc lập tự chủ, ít phụ thuộc trực tiếp, gò bó vào cộng đồng như những cư dân Bắc-Trung Bộ.
  6. Biết tính toán, dám làm ăn lớn, và mạo hiểm.
  7. Cởi mở, bộc trực mà hoà đồng.
  8. Sẵn sàng xả thân cứu người vì nghĩa lớn.
  9. Cần cù và chịu khó trong lao động sản xuất.

Nhược điểm[sửa mã nguồn]

Người Việt có một số nhược điểm đáng chú ý. Những nhược điểm này làm ảnh hưởng đến sự phát triển của Việt Nam, làm xấu đi hình ảnh của người Việt nói chung[17] gây nên nhiều hạn chế trong giao lưu kinh tế - văn hóa, nhất là khi Việt Nam đang trên đường hội nhập sâu hơn với thế giới.[18]

Các đánh giá trước 1945[sửa mã nguồn]

Sách Xứ đàng trong năm 1621 của thương gia người Ý Cristoforo Borri,ông có nhận xét về khuyết điểm của người Việt ở Đàng Trong như sau[2]:

  1. Nóng tính
  2. Hay xin những thứ mình thấy đẹp (dù người có không muốn cho)

Trong bài viết về người An Nam trong bách khoa toàn thư của Encyclopædia Britannica xuất bản năm 1911 đã từng viết:

Nguyễn Văn Vĩnh đã bàn đến nhiều thói hư tật xấu thường thấy ở người nước ta như tính ỷ lại, tính ăn gian nói dối, thói ăn uống thành nợ miệng, tính bán tín bán nghi, thói đồng bóng, tính vay mượn kém sáng tạo, tính cơ hội đục nước béo cò, thói “gì cũng cười”, tệ cờ bạc...[4][19]

Phan Bội Châu trong Chương thứ năm trong Việt Nam quốc sử khảo mang tên Sự thịnh suy của dân quyền và dân trí của nước ta[20].

Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu trong cuốn Ðất Lề Quê Thói (Phong Tục Việt Nam) cũng nhận xét rằng: "Người mình phần đông thường ranh vặt, quỷ quyệt, bộ tịch lễ phép mà hay khinh khi nhạo báng. Tâm địa nông nổi, khoác lác, hiếu danh...".[21] Nhà nghiên cứu Vương Chí Nhàn cũng có một cuốn sách nhan đề "Người Việt xấu xí" nói về thói quen và đức tính xấu của người Việt.[22]

Cuốn "Số đỏ của Vũ Trọng Phụng (đã từng bị cấm lưu hành tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước năm 1975 cũng như tại Việt Nam thống nhất cho đến năm 1986)[23] nêu bật khá rõ các thói hư tật xấu của người Việt[cần dẫn nguồn].

Các học giả khi bàn về phong hoá của đất nước cũng lưu tâm đến những mặt hạn chế, thói xấu của người Việt Nam như để góp phần giải thích cái thân phận thấp kém của một quốc gia vừa mất chủ quyền vừa lạc hậu. Những đánh giá của Phan Kế Bính, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh... thật nghiêm khắc.[4]

Học giả Trần Trọng Kim trong cuốn Việt Nam Sử Lược đã viết: "Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt có cả các tính tốt và các tính xấu. Ðại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy, vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi qủy quyệt, và hay bài bác chế nhạo. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn có sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.".

Các đánh giá từ 1945 trở về sau[sửa mã nguồn]

Hồ Chí Minh cũng có những tác phẩm cảnh báo về những thói hư tật xấu trong tầng lớp cán bộ như Sửa đổi lối làm việc (1947)[24]... Theo ông, Cha đẻ của mọi thứ khuyết điểm là chủ nghĩa cá nhân. Bệnh tham lam, lười biếng, ba hoa, bè phái, địa phương chủ nghĩa, ham danh vị, quân phiệt, quan liêu, xa rời quần chúng, hẹp hòi, chuộng hình thức, lối làm việc bàn giấy, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa .... đều từ đó mà ra.[25]

Theo GS Trần Ngọc Thêm, trong tác phẩm "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" (năm 2001, NXB TP. Hồ Chí Minh), ông chỉ ra rằng đối với người Việt, khi đứng trước những khó khăn lớn, những nguy cơ đe dọa sự sống còn của cả cộng đồng thì cái nổi lên sẽ là tinh đoàn kết và tính tập thể; nhưng khi nguy cơ ấy qua rồi thì có thể là thói tư hữu và óc bè phái, địa phương lại nổi lên (Trần Ngọc Thêm 2001: trang 198). Trong giao tiếp, khi thấy mình đang đứng trong cộng đồng quen thuộc thì tính thích giao tiếp nổi lên, còn khi vượt ra khỏi cộng đồng, đứng trước người lạ, thì tính rụt rè sẽ lấn át (Trần Ngọc Thêm 2001: trang 278-79). Tính nước đôi của người Việt thường phát huy tác dụng tốt trong những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, một mất một còn (điển hình là trong chiến tranh), còn trong xây dựng hoà bình, trong tiến trình công nghiệp hóa và đô thị hoá thì đáng tiếc là thường mặt trái của tính nước đôi này lại nổi trội[26].

Người Việt thì có triết lý vừa phải, "lắm thóc nhọc xay", "cầu sung vừa đủ xài" lại vừa không có thói quen coi trọng thời gian, coi thời giờ là "cao su" (Trần Ngọc Thêm 2001: 287), bởi vậy mà không có trì chí làm giàu. Chỉ khi thấy mình thua kém người xung quanh quá nhiều thì mới cố gắng, nhưng ngay khi thấy mình đã như mọi người rồi thì lại làm việc cầm chừng. Tác phong làm việc này hoàn toàn không thích hợp với nếp sống đô thị.[26]

Tác giả Đỗ Kiên Trung nêu ba điểm về mặt không tích cực trong tư duy người Việt đó là: tầm nhìn ngắn hạn, tư duy đám đông triệt tiêu tư tưởng cá nhân và sự lên ngôi của kinh nghiệm. [27]

PGS Trần Đình Thiên, cho rằng Việt Nam chậm tiến là vì : "... suốt mấy ngàn năm phát triển của Việt Nam cái cấu trúc phát triển của ta nó quá bền vững, như chúng ta hay nói là con trâu đi trước cái cày đi sau, và con người đi sau rốt. Cái hệ thống thể chế dựa trên ba nhân vật ấy nó tích đọng lại quá lâu nên phá vỡ nó rất khó. Nhất là việc cái cấu trúc thể chế đó đã giúp dân tộc này xử lý thành công bao nhiều cuộc chiến tranh... Bởi sự luôn phải gồng mình lên đương đầu với bao cuộc chiến tranh, nên nó luôn cảnh giác với mọi thế lực từ bên ngoài. Mọi luồng gió mới từ bên ngoài vào luôn được đón nhận với một tâm lý cảnh giác cao độ."[28] Theo ông người Việt cũng chưa có văn hóa tự chịu trách nhiệm mà thường "có thói quen qui lỗi ngắn hạn, qui cho ông nọ, ông kia, hay cho giai đoạn nọ, giai đoạn kia"[28].

Tài liệu chuyên khảo[sửa mã nguồn]

  • Maj Duong Nguyen (1985). Culture Shock A Review of Vietnamese Culture and Its Concepts of Health and Disease. [Cross-cultural Medicine]. West J Med 1985 Mar; 142:409-412
  • Truong Buu Lam (1987). Borrowing and Adaptation in Vietnamese Culture. Southeast Asia Paper No. 25, Center for Southeast Asian Studies, School of Hawaiian~ Asian and Pacific Studies, University of Hawaii at Manoa.

Chú thích[sửa mã nguồn]

  1. ^ a b Trần Thanh (2006), Thói hư tật xấu người Việt chỉ trong 300 trang, có đủ? (phỏng vấn ông Vương Trí Nhàn), Dân Trí
  2. ^ a b c Cristophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, (dịch giả : Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị), Nxb Tp Hồ Chí Minh, tr. 49-51
  3. ^ Báo chí quốc ngữ và đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh, VnExpress.
  4. ^ a b c Dương Trung Quốc (12 tháng 10 năm 2006). “Nghĩ về những thói hư tật xấu của người mình”. Tiền phong Online. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2013.
  5. ^ Giới thiệu sách Đất lề quê thói, Dự án Văn hóa Giáo dục Sách Hay
  6. ^ Tưởng niệm giáo sư Nguyễn Hồng Phong, Tuổi Trẻ.
  7. ^ Người Việt - Phẩm chất và thói hư, tật xấu, Atlazbooks.
  8. ^ Người Việt - phẩm chất và thói hư tật xấu: Một cuốn sách hấp dẫn, Tiền Phong
  9. ^ a b c Tính hai mặt trong tính cách của con người Việt Nam, Phan Thành Nhâm, Luận văn Thạc sĩ ngành Triết học, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân Văn.
  10. ^ Bồi dưỡng và phát huy chủ nghĩa yêu nước chân chính, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, TS. Vũ Ngọc Am, Tạp Chí Cộng Sản.
  11. ^ Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, Báo Điện tử Tia Sáng, Bộ Khoa học & Công nghệ.
  12. ^ Ảnh hưởng của yếu tố văn hóa truyền thống đối với văn hóa hành chính Việt Nam hiện nay, ThS. Phạm Thị Diễm, Học viện Hành chính, Học viện Chính trị & Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
  13. ^ Người Việt hiếu học và "hiếu danh", Theo Tuần Việt Nam.
  14. ^ Asian Culture Brief: Vietnam, Marsha E. Shapiro, Trang 2.
  15. ^ Peter G. Bourne (1970); Men, stress, and Vietnam, Little; Brown, trang 58
  16. ^ Đặc trưng tính cách của người Việt Nam bộ, Hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.
  17. ^ Q.Tiên-L.Hoàng (6 tháng 5 năm 2013). "Bệnh gian và tham của người Việt không thể chữa được". Báo Giáo dục Việt Nam. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2013. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
  18. ^ Nguyễn Hồi Loan (2005), Một số đặc điểm tâm lý của người nông dân Việt Nam ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình hội nhập kinh tế, Tạp chí Tâm lý học 7(76), tr. 12-14
  19. ^ Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với việc phát triển báo chí tiếng Việt và truyền bá chữ Quốc ngữ, ngày 13 tháng 9 năm 2010, Tạp chí Văn Hóa Nghệ An.
  20. ^ Những tác phẩm của Phan Bội Châu, tập I Việt nam vong quốc sử. Việt nam quốc sử khảo NXB Khoa học xã hội Hà Nội, 1982. Trang 224
  21. ^ Vũ Văn Khiếu (1970). Đất lề quê thói. NXB Đại Nam. tr. 68.
  22. ^ Người Việt Xấu Xí, Vương Trí Nhàn.
  23. ^ Zinoman, Peter. "Vũ Trọng Phụng's Dumb Luck and the nature of Vietnamese modernism." Introduction to Dumb Luck. Vũ Trọng Phụng. Translated by Nguyen Nguyet Cam and Peter Zinoman. Ann Arbor: University of Michigan Press, 2002. ISBN 0472068040.
  24. ^ Học tập tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quang Minh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An
  25. ^ “Bốn nguyên tắc tự phê bình và phê bình theo Tư tưởng Hồ Chí Minh”. Cổng thông tin điện tử Hà Tĩnh. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2013.
  26. ^ a b Vai trò của tính cách dân tộc trong tiến trình phát triển của Hàn Quốc, GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm.
  27. ^ THS. Đỗ Kiên Trung, Những giải pháp nhằm định hình tư duy một phong cách tư duy phản biện, Số 4 (14) - Tháng 5-6/2012, Tạp chí Phát triển & Hội nhập.
  28. ^ a b Hàn Quốc đã thành công, ta vẫn loay hoay, Tuần Việt Nam, ngày 02 tháng 10 năm 2013.

Liên kết ngoài[sửa mã nguồn]