Thời kỳ Heian

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(Đổi hướng từ Thời Heian)


Lịch sử Nhật Bản
Tiền sử
Thời kỳ đồ đá cũ ~15000 TCN
Thời kỳ Jōmon (Thằng Văn) ~15000 TCN–300 TCN
Thời kỳ Yayoi (Di Sinh) tk 4 TCN–tk 3
Cổ đại
Thời kỳ Kofun (Cổ Phần) tk 3–tk 7
Thời kỳ Asuka (Phi Điểu) 592–710
Thời kỳ Nara (Nại Lương) 710–794
Thời kỳ Heian (Bình An) 794–1185
Phong kiến
Thời kỳ Kamakura (Liêm Thương) 1185–1333
     Tân chính Kemmu (Kiến Vũ) 1333–1336
Thời kỳ Muromachi (Thất Đinh) 1336–1573
     Thời kỳ Nam-Bắc triều 1336–1392
     Thời kỳ Chiến Quốc 1467–1590
Thời kỳ Azuchi-Momoyama (An Thổ-Đào Sơn) 1573–1603
     Mậu dịch Nanban (Nam Man)
     Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên 1592–1598
Thời kỳ Edo/Tokugawa (Giang Hộ/Đức Xuyên)1603–1868
     Chiến tranh Nhật Bản – Lưu Cầu
     Chiến dịch Ōsaka (Đại Phản)
     Tỏa Quốc
     Đoàn thám hiểm Perry
     Hiệp ước Kanagawa (Thần Nại Xuyên)
     Bakumatsu (Mạc mạt)
     Minh Trị Duy tân
     Chiến tranh Boshin (Mậu Thìn)
Hiện đại
Thời kỳ Minh Trị (Meiji) 1868–1912
     Nhật xâm lược Đài Loan 1874
     Chiến tranh Tây Nam
     Chiến tranh Nhật–Thanh
     Hiệp ước Mã Quan
     Chiến tranh Ất Mùi 1895
     Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn
     Hòa ước Portsmouth
     Hiệp ước Nhật–Triều 1910
Thời kỳ Đại Chính (Taishō) 1912-1926
     Nhật Bản trong Thế chiến thứ nhất
     
Sự can thiệp của Nhật Bản vào Siberia
     Đại thảm họa động đất Kantō 1923
Thời kỳ Chiêu Hòa (Shōwa) 1926–1989
     Chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản
     Sự kiện Phụng Thiên
     Nhật Bản xâm lược Mãn Châu
     Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản
     Chiến tranh Trung–Nhật
     Cuộc tấn công Trân Châu Cảng
     Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki
     Chiến tranh Xô–Nhật
     Nhật Bản đầu hàng
     Thời kỳ bị chiếm đóng 1945-1952
     Nhật Bản thời hậu chiếm đóng
     Kỳ tích kinh tế Nhật Bản thời hậu chiến
Thời kỳ Bình Thành (Heisei) 1989–2019
     Thập niên mất mát
     Động đất Kobe 1995
     Cool Japan
     Động đất và sóng thần Tōhoku 2011
Thời kỳ Lệnh Hòa (Reiwa) 2019–nay
     Đại dịch COVID-19 tại Nhật Bản

Thời kỳ Heian (平安時代, Heian-jidai, âm Hán Việt: Bình An thời đại) là thời kì phân hóa cuối cùng trong lịch sử Nhật Bản cổ đại, kéo dài từ năm 794 đến 1185. Đây là thời kỳ đạo Khổng và các ảnh hưởng của Trung Quốc phát triển tới đỉnh cao. Thời kì Heian cũng được coi là giai đoạn đỉnh cao của quyền lực Nhật hoàng, đánh dấu sự phát triển của nghệ thuật, thơ cavăn học. Heian (平安, Bình An) trong tiếng Nhật có nghĩa là "hòa bình" hoặc "yên bình".

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Heian kế tiếp thời kỳ Nara, bắt đầu từ năm 794 sau khi Nhật hoàng thứ 50, Kammu, rời kinh đô Heijō-kyō (平城京, Bình Thành Kinh ở Nara) tới Heian kyō (平安京, Bình An kinh thành phố Kyoto ngày nay). Đây được coi là một dấu son trong văn hóa Nhật Bản, được các thế hệ sau ghi nhớ ngưỡng mộ. Thời kỳ Heian cũng đánh dấu sự thăng hoa của tầng lớp samurai, tầng lớp sau cùng sẽ chiếm đoạt quyền lực và bắt đầu thời kì phong kiến ở Nhật Bản.

Về cơ bản, quyền lực tối cao do Nhật hoàng nắm giữ. Nhưng trong thực tế, dòng họ quý tộc Fujiwara đã thâu tóm quyền lực. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi tại các tỉnh lị, nhà Fujiwara và các dòng họ quý tộc khác phải có vệ sĩ, cảnh vệ và các binh sĩ. Tầng lớp võ sĩ đã học hỏi được rất nhiều điều trong suốt thời kỳ Heian. Đầu năm 939, Taira no Masakado đe dọa quyền lực của chính quyền trung ương bằng việc dẫn đầu cuộc nổi loạn ở tỉnh Hitachi ở phía Bắc. Gần như trong cùng thời điểm, Fujiwara no Sumitomo nổi loạn ở phía Tây. Phần lớn sức mạnh của chính quyền nằm trong quân đội riêng của shogun.

Sự lấn tới của tầng lớp võ sĩ vào ảnh hưởng của hoàng gia là hậu quả của cuộc nổi loạn Hōgen. Cùng thời gian này, Taira no Kiyomori học theo âm mưu của Fujiwara bằng việc đưa con ông lên giữ ngôi trị vì Nhật Bản bằng chức nhiếp chính. Gia tộc này (gia tộc Taira) vẫn tại vị cho đến sau cuộc chiến đánh dấu sự mở đầu của Mạc phủ, Chiến tranh Genpei. Thời kỳ Kamakura bắt đầu từ năm 1185 khi Minamoto no Yoritomo giành được quyền lực từ hoàng đế và thiết lập Mạc phủ, tức Mạc phủ Kamakura, tại Kamakura.

Chế độ nhiếp chính Fujiwara[sửa | sửa mã nguồn]

Lầu phượng hoàng trong Byodoin, một công trình kiến trúc Phật giáo được xây dựng vào thời kỳ Heian.

Khi Nhật hoàng Kammu rời kinh đô tới Heian-kyō (Kyoto), trung tâm của hoàng gia trong hơn 1000 năm sau đó. Kammu không chỉ muốn tăng cường quyền lực hoàng đế mà còn củng cố vị thế địa chính trị của bộ máy cai trị. Kyoto có một con sông dẫn ra biển và có thể đến được bằng đường bộ qua các tỉnh phía Đông. Thời Heian giai đoạn đầu (784-967) là sự tiếp tục văn hóa thời kì Nara, thủ đô Heian (Kyoto) được thiết kế theo kiểu kinh đô Trường An của nhà Đường. Nara cũng như vậy nhưng ở quy mô lớn hơn. Bất chấp sự suy thoái của các cải cách Taika-Taihō, chính quyền hoàng gia vẫn rất mạnh vào giai đoạn đầu thời kì Heian. Sự thật là, việc Nhật Hoàng Kammu tránh xa các cải cách mạnh mẽ đã làm giảm cường độ các cuộc đấu tranh chính trị và ông đã được thừa nhận là một trong những hoàng đế mạnh mẽ nhất của Nhật Bản.

Dù đã bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự năm 792, Kammu vẫn tiến hành những cuộc tấn công quân sự lớn nhằm thu phục người Emishi, những người được cho là con cháu của người thời kỳ Jōmon đã di cư, sống ở Bắc và Đông Nhật Bản. Sau khi thu được một số lãnh thổ năm 794, năm 797 Kammu bổ nhiệm một tướng lĩnh mới với tên hiệu Chinh di đại tướng quân. Năm 801, vị tướng này đánh bại người Emishi và mở rộng lãnh địa hoàng gia tới cuối phía Đông của đảo Honshū. Quyền lực hoàng đế với các tỉnh ở thời điểm mong manh nhất. Tuy nhiên, trong thế kỉ 9 và 10, phần lớn quyền lực rơi vào tay các gia tộc lớn, họ không coi trọng các vùng đất có phong cách Trung Hoa và hệ thống thuế của chính quyền tại Kyoto. Sự ổn định đến với thời kì Heian, dù sự kế vị được đảm bảo cho gia đình hoàng đế theo phương thức truyền ngôi, quyền lực lại lần nữa tập trung vào tay của dòng họ quý tộc như gia tộc Fujiwara.

Tranh cuộn vào khoảng 1130, minh họa một cảnh từ chương "Sông tre’’ trong "Truyện kể Genji.

Sau cái chết của Kammu năm 806 và sự tranh giành quyền kế vị của hai con trai ông, hai cơ quan mới được thành lập để điều chỉnh lại hệ thống hành chính Taika-Taihō. Thông qua Ngự tiền viện, Hoàng đế có thể soạn thảo các chiếu chỉ trực tiếp và chắc chắn hơn trước kia. Ban Cảnh binh thủ thay thế các đơn vị cấm vệ mang nặng tính nghi lễ. Trong khi hai cơ quan này củng cố quyền lực của Thiên hoàng, chúng và các cấu trúc kiểu Trung Hoa khác nhạt dần khi đất nước phát triển hơn. Ảnh hưởng Trung Hoa thực sự chấm dứt với đoàn sứ bộ của Hoàng gia đến nhà Đường năm 838. Nhà Đường là một đất nước đang suy vong, và Phật giáo Trung Quốc đang bị khủng bố quyết liệt, làm xói mòn sự kính trọng của người Nhật với các thể chế Trung Quốc. Nhật Bản bắt đầu thay đổi theo chiều hướng hướng nội hơn.

Giống như gia tộc Soga nắm quyền kiểm soát ngai vàng trong thế kỷ 6, gia tộc Fujiwara đã thông hôn với Hoàng gia trong thế kỷ 9, và một trong những thành viên của họ trở thành người đứng đầu Ngự tiền phòng của Hoàng đế. Một người nhà Fujiwara khác trở thành Nhiếp chính quan, Sessho cho cháu trai mình, khi đó là một ấu chúa, và một người nữa được phong chức Kanpaku. Cho đến cuối thế kỷ 9, vài Thiên Hoàng cố gắng, nhưng thất bại để kìm hãm nhà Fujiwara. Tuy vậy, có một lần dưới triều Nhật Hoàng Đề Hồ (897-930), chế độ nhiếp chính Fujiwara bị gián đoạn vì Nhật hoàng trực tiếp trị vì.

Tuy nhiên, gia tộc Fujiwara không hề bị suy yếu dưới triều Đề Hồ mà thực tế họ còn mạnh hơn. Tập quyền ở Nhật Bản tiếp tục bị xói mòn, và nhà Fujiwara, cùng với vài gia đình lớn và tổ chức tôn giáo, có thêm nhiều shōen (trang ấp) và vô cùng giàu có vào đầu thế kỷ 10. Vào đầu thời Heian, các shōen đã có được địa vị pháp lý, và các tổ chức tôn giáo lớn giữ lấy cái danh vĩnh cửu, từ chối nộp thuế, và miễn nhiễm trước việc kiểm soát của chính quyền với các shōen mà họ nắm giữ. Những người canh tác trên đất thấy việc đổi tên gọi thành shōen rất có lợi cho phần chia sau vụ mùa. Nhân dân và đất đai ngày càng vuột khỏi tầm kiểm soát của thuế khóa và triều đình, thực tế đã trở lại tình trạng trước Cải cách Taika.

Tranh Fujiwara Michinaga, Kikuchi Yōsai vẽ.

Trong vòng một thập kỷ sau cái chết của Đề Hồ, gia tộc Fujiwara nắm quyền kiểm soát toàn diện triều đình. Năm 1000, Fujiwara no Michinaga đã có thể phế lập Thiên Hoàng theo ý muốn. Rất ít quyền lực thuộc về chế độ hành chính truyền thống, và việc triều chính nằm cả trong tay gia tộc Fujiwara. Gia tộc Fujiwara được nhà sử học George B. Sansom gọi là "độc tài cha truyền con nối."

Bất chấp việc chiếm đoạt vương quyền, nhà Fujiwara vẫn tạo ra một thời kỳ nở hoa của nghệ thuật và mỹ học giữa triều đình và tầng lớp quý tộc. Những vần thơ duyên dáng cùng văn học tiếng bản ngữ rất được ưa chuộng. Văn tự tiếng Nhật đã từ lâu dựa vào kanji, nay nó được bổ sung thêm bằng kana, hai cách phát âm chữ viết Nhật Bản: katakana, một hệ thống dựa vào trí nhớ sử dụng chữ tượng hình Trung Hoa; và hiragana, bảng ký hiệu âm tiết bằng chữ thảo với một phương pháp viết riêng biệt đặc sắc Nhật Bản. Hiragana cho người viết cảm xúc với những từ phát âm, và với nó, lại càng quảng bá cho sự nổi tiếng của văn học tiếng Nhật, đa phần các tác phẩm được những người phụ nữ trong triều viết ra, họ đều không biết tiếng Trung Quốc như đàn ông. Ba phụ nữ cuối thế kỷ 10, đầu thế kỷ 11 đã giới thiệu cái nhìn về cuộc sống và sự lãng mạn ở triều đình Heian trong "Tinh Linh Nhật ký" ([[:ja:蜻蛉日記|蜻蛉日記]] Kagero nikki) do "mẹ của Fujiwara Michitsuna" viết, "Truyện gối đầu" của Sei Shōnagon và "Truyện kể Genji" của Murasaki Shikibu. Nghệ thuật bản xứ cũng nở hoa dưới triều đại Fujiwara sau hàng thế kỷ noi theo hình mẫu Trung Hoa. Những bức vẽ phong cách Nhật Bản sặc sỡ yamato-e về đời sống triều đình và những câu chuyện về đền thờ và nơi linh thiêng trở thành thông dụng vào giữa và cuối thời Heian, trở thành khuôn mẫu cho nghệ thuật Nhật Bản ngày nay.

Khi văn hóa phát triển rực rỡ, sự phân quyền cũng ngày càng trầm trọng. Trong khi thời kỳ đầu tiên của phát triển shōen vào đầu thời kỳ Heian đã chứng kiến việc khai hoang nhiều đất đai mới và việc phong đất cho các nhà quý tộc và các thể chế tôn giáo, thời kỳ thứ hai chứng kiến gia sản các "gia tộc triều đình" phình lên. (Thực tế, hệ thống gia tộc cũ vẫn gần như còn nguyên vẹn ở trong triều đình tập quyền cũ). Các thể chế mới nay cần đối diện với sự thay đổi về xã hội, kinh tế, và chính trị. Luật Taihō mất hiệu lực, các thể chế của nó bị gạt khỏi chức năng nghi lễ. Hệ thống hành chính gia đình nay trở thành thể chế chung. Khi gia đình quyền lực nhất Nhật Bản, nhà Fujiwara thống trị Nhật Bản và quyết định mọi việc triều chính, ví dụ như việc thừa kế ngai vàng. Việc gia đình và triều chính hoàn toàn bị trộn lẫn, một hình mẫu được bắt chước bởi các gia đình khác, các tu viện, và thậm chí cả Hoàng gia. Việc quản lý đất đai trở thành công việc chính yếu của các gia đình quý tộc, không nhiều sự quản lý trực tiếp từ Hoàng gia hay chính phủ trung ương vì quyền lực của họ đã suy giảm và sự đoàn kết lớn trong gia đình và việc thiếu ý thức thống nhất quốc gia của người Nhật.

Tầng lớp quân sự cầm quyền[sửa | sửa mã nguồn]

Vào đầu thời này, khi chế độ cưỡng bách tòng quân vẫn được trung ương kiểm soát, các hoạt động quân sự không nằm trong tay của các quý tộc địa phương. Nhưng khi hệ thống này bị dỡ bỏ sau năm 792, các thế lực địa phương trở thành nguồn sức mạnh quân sự chủ yếu. Những người chủ Shōen đã trở thành những người đầy quyền thế và, vì họ đã tiếp thu được kỹ thuật quân sự tiến bộ (ví dụ như phương pháp huấn luyện, cung, tên, ngựa khỏe hơn và những thanh kiếm siêu hạng) và đối mặt với tình hình địa phương ngày càng tồi tệ đi trong thế kỷ 9, hoạt động quân sự trở thành một phần của đời sống các shoen. Không chỉ các "shoen" mà cả các thế chế dân sự và tôn giáo cũng tổ chức các đơn vị bảo an riêng để bảo vệ chính mình. Dần dần, tầng lớp trên ở địa phương chuyển thành giai cấp quý tộc quân sự dựa trên tư tưởng của bushi (võ sĩ) hay samurai.

Sự hâm mộ các võ sỹ gồm nhiều loại khác nhau, phá vỡ cơ cấu quyền lực xưa cũ và tạo ra những quan hệ mới trong thế kỷ 9. Tầm quan trọng của tình cảm, những mối liên hệ gia đình, và mối quan hệ họ hàng được củng cố trong các nhóm quân sự và trở thành một phần của chế độ gia đình trị. Trong thời đại này, các gia tộc quân sự lớn ở địa phương tập hợp xung quanh những quý tộc triều đình, những người đã trở thành những nhân vật địa phương nổi bật. Những gia tộc quân sự gây dựng thanh thế bằng mối liên hệ với hoàng gia, các danh gia quân sự tại triều đình và tiếp cận với nguồn nhân lực. Các gia tộc Fujiwara, Taira và Minamoto nằm trong số những gia tộc nhận được sự ủng hộ lớn nhất của các giai tầng quân sự mới.

Sản lượng lương thực suy giảm, dân số gia tăng, và cạnh tranh giữa các gia đình lớn về các nguồn lực đều dẫn đến sự suy giảm dần quyền lực của nhà Fujiwara và làm gia tăng sự mất ổn định quân sự vào giữa thế kỷ 10 và thế kỷ 11. Thành viên của các gia tộc Fujiwara, Taira, và Minamoto—tất cả đều có nguồn gốc hoàng gia—tấn công lẫn nhau, tuyên bố quyền kiểm soát những dải đất lớn của những vùng đất chiếm được, thiết lập những chế độ thù địch, và nói chung là đã phá vỡ nền hòa bình của Xứ sở Mặt trời mọc.

Nhà Fujiwara kiểm soát ngai vàng cho đến triều đại Thiên hoàng Hậu Tam Điều (1068-1073), Thiên hoàng đầu tiên không do một người mẹ từ gia đình Fujiwara sinh ra kể từ thế kỷ 9. Go-Sanjo, quyết tâm phục hồi đế quyền qua sức mạnh kiểm soát cá nhân, thi hành các cải cách để kiềm chế ảnh hưởng của nhà Fujiwara. Ông cũng thiết lập một cơ quan để soạn thảo và xác nhận tính hợp lệ của các hồ sơ bất động sản với mục đích tái xác nhận quyền kiểm soát trung ương. Shōen không có giấy phép đúng đắn, và những người nắm giữ đất đai lớn, như nhà Fujiwara, cảm thấy bị đe dọa vì mất đi nhiều đất đai. Go-Sanjo cũng thành lập Incho, hay "Viện Sảnh", do người thừa kế của Thiên Hoàng đứng đầu, người từ bỏ quyền lợi để cống hiến bản thân mình cho sự cai trị ở hậu trường, hay Insei ("Viện Chính’’).

Incho lấp đầy khoảng trống quyền lực của nhà Fujiwara. Thay vì bị xua đuổi, nhà Fujiwara trở lại vị trí cũ của mình là độc tài dân sự và Trung Đại Nhân và thường bị bỏ qua trong việc ra các quyết định. Trong thời gian này, rất nhiều người nhà Fujiwara bị thay thế, phần lớn là bởi thành viên của gia tộc Minamoto đang nổi lên. Trong khi nhà Fujiwara bất hòa và chia thành hai phe Bắc Nam, hệ thống "Insei" cho phép huyết thống trực hệ hoàng gia lại giành được ảnh hưởng đằng sau ngai vàng. Thời kỳ từ năm 1086 đến năm 1156 là thời gian của "Incho" có quyền uy tối thượng và sự nổi lên của tầng lớp quân sự trên toàn quốc. Quân sự thay vì dân sự đã thống trị triều đình.

Tranh vẽ trận Dan-no-ura ngày 25 tháng 4, 1185, chiến tranh Genpei.

Tranh đoạt ngai vàng vào giữa thế kỷ 12 cho nhà Fujiwara cơ hội để tái lập quyền lực của mình. Fujiwara no Yorinaga sát cánh cùng vị Thiên Hoàng già trong một trận quyết chiến năm 1156 chống lại người được cho là người kế vị, được sự ủng hộ của hai gia tộc Taira và Minamoto (Bạo loạn Hogen). Cuối cùng, nhà Fujiwara bị tiêu diệt, hệ thống triều đình cũ bị thay thế, và hệ thống "Insei" không còn quyền lực vì bushi (võ sỹ) nắm việc triều chính, tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử Nhật Bản. Năm 1159, hai nhà Taira và Minamoto xung đột (Bạo loạn Heiji), và 20 năm quyền lực của nhà Taira bắt đầu.

Taira no Kiyomori nổi lên như một thế lực thực sự ở Nhật Bản sau sự suy yếu của nhà Fujiwara, và ông ta sẽ nắm quyền lãnh đạo trong 20 năm tới. Ông đã cho con gái Tokuko kết hôn với Thiên hoàng Takakura, người chỉ mới 19 tuổi, để lại đứa con trai sơ sinh Antoku để kế vị ngai vàng. Kiyomori đã lấp đầy không dưới 50 vị trí của chính phủ bằng người thân của mình, xây dựng lại Biển nội địa và khuyến khích giao thương với Nhà Tống Trung Quốc. Ông cũng đã thực hiện các hành động mạnh mẽ để bảo vệ quyền lực của mình khi cần thiết, bao gồm việc loại bỏ và lưu đày 45 quan chức tòa án và san bằng hai ngôi đền rắc rối, Todai-ji và Kofuku-ji.[cần dẫn nguồn]

Taira bị quyến rũ bởi đời sống triều đình và bỏ qua các vấn đề ở các tỉnh[cần dẫn nguồn], nơi gia tộc Minamoto đang xây dựng lại sức mạnh của họ. Năm 1183, hai năm sau cái chết của Kiyomori, Yoritomo Minamoto đã phái anh em Yoshitsune và Noriyori tấn công Kyoto. Taira bị đánh lạc hướng và buộc phải chạy trốn, và Thái hậu đã cố gắng tự dìm mình và Hoàng đế 7 tuổi (ông đã chết, nhưng mẹ ông vẫn sống sót). Con trai khác của Takakura đã thành công với tư cách là Thiên hoàng Go-Toba.[cần dẫn nguồn]

Với tài tổ chức của Yoritomo, hệ thống bakufu cai trị Nhật Bản trong bảy thế kỷ tiếp theo đã được áp dụng. Ông bổ nhiệm các thống đốc quân sự, hay daimyō , để cai trị các tỉnh và quản gia, hoặc jito để giám sát các khu vực công cộng và tư nhân. Yoritomo sau đó chuyển sự chú ý của mình đến việc loại bỏ gia tộc Fujiwara hùng mạnh, nơi che chở cho người anh em nổi loạn Yoshitsune. Ba năm sau, ông được bổ nhiệm shōgun ở Kyoto. Một năm trước khi qua đời vào năm 1199, Yoritomo đã trục xuất Thiên hoàng thiếu niên Go-Toba khỏi ngai vàng. Hai con trai của Go-Toba đã kế vị nhưng họ cũng sẽ bị những người kế vị chức shōgun của Yoritomo xóa bỏ.[cần dẫn nguồn]

Văn hóa Heian[sửa | sửa mã nguồn]

Sự phát triển của Phật giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Đàn Thượng Già Lam của Núi Kōya. Nơi này là một trung tâm của vùng đất linh thiêng của Chân Ngôn Tông.
Phổ Hiền Bồ Tát diên mệnh, một bức tranh vẽ trên lụa thế kỉ 12, cuối thời Heian.
Komoku Ten đang đứng (Quảng Mục Thiên Vương)

Phật giáo bắt đầu lan rộng ở Nhật Bản trong suốt thời kì Heian, chủ yếu qua hai giáo phái lớn là Thiên thai tôngChân ngôn tông. Thiên thai tông có nguồn gốc từ Trung Quốc, dựa trên Diệu pháp liên hoa kinh, một trong những kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Chân ngôn tông lại là một giáo phái bản địa sáng lập bởi Kūkai, một giáo phái có quan hệ gần gũi với Ấn Độ Giáo, Phật giáo Tây Tạng nguyên căn cũng như tư duy của Phật giáo Trung Hoa. Kūkai tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ với người kế nhiệm Nhật hoàng Kammu cũng như các thế hệ người Nhật Bản không chỉ bởi tính linh thiêng, mà còn bởi nghệ thuật viết chữ, khả năng thi ca, hội họa, điêu khắc của ông. Trong khi đó, bản thân Kammu rất hâm mộ Thiên thai tông. Giữa các tu viện của Thiên thai tông trên núi Hiei và triều đình ở kinh đô mới ngay chân núi có một quan hệ gắn bó chặt chẽ. Chính vì thế, Thiên thai tông có ảnh hưởng đặc biệt tới Nhật hoàng Kammu và tới cả quốc gia.

Văn học thời kỳ Heian[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù chữ viết Trung Hoa (Kanbun-Hán văn) vẫn là ngôn ngữ chính thức của triều đình thời kỳ Heian, việc ra đời và sử dụng rộng rãi kana chứng kiến sự bùng nổ của văn học Nhật Bản. Tuy nhiên, dẫu có sự ra đời của nhiều thể loại văn chương như truyện-tiểu thuyết (物語, monogatari "vật ngữ"), các thể loại nhật ký (日記, nikki), du ký (紀行, kikō, kỷ hành), tùy bút (草子, sōshi, thảo tử), văn học chỉ thịnh hành trong triều đình và các nhà sư.

Thơ đặc biệt là một yếu tố chính của cuộc sống cung đình. Các quý ông và quý bà tương lai mong muốn thành thạo nghệ thuật viết thơ như một dấu ấn về địa vị của họ. Mỗi dịp đều là dịp viết thơ, từ sinh nhật một đứa trẻ cho đến việc đăng cơ của một hoàng đế, hoặc thậm chí là một cảnh đẹp thiên nhiên. Một bài thơ được viết tốt có thể dễ dàng tạo ra hoặc phá hủy danh tiếng của một người, và thường là một phần quan trọng của tương tác xã hội.[1] Việc cũng không kém phần quan trọng là lựa chọn thư pháp hay là chữ viết tay. Người Nhật thời kỳ này tin rằng chữ viết tay có thể phản ánh tâm hồn của một người: do đó, chữ viết kém hoặc vội vàng có thể được coi là dấu hiệu của sự sinh sản kém. Cho dù là thơ tiếng Trung hay tiếng Nhật, chữ viết tốt và kỹ năng nghệ thuật là tối quan trọng đối với danh tiếng xã hội khi nói đến thơ. Sei Shōnagon đề cập trong Sách gối đầu của mình rằng khi một cận thần nào đó cố gắng hỏi lời khuyên của bà về cách viết một bài thơ cho Hoàng hậu Sadako, cô phải lịch sự quở trách anh ta vì chữ viết của anh ta quá xấu.[2]

Lời của bản quốc ca Nhật Bản hiện nay, Kimi Ga Yo, nguyên là một bài waka được viết trong hậu kỳ Heian, cũng như Truyện kể Genji (源氏物語, Genji monogatari) của Murasaki Shikibu, được công nhận là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên không chỉ của Nhật Bản mà còn của cả thế giới. Người cùng thời và là đối thủ của Murasaki Shikibu trong cung, bà Sei Shōnagon hé lộ sự quan sát và suy ngẫm thâm trầm trong Sách gối đầu (枕草子, Makura no Sōshi) được viết vào thập kỷ 990. Bài thơ Nhật Bản nổi tiếng Iroha (いろは) cũng được viết dưới thời Heian.

Sắc đẹp[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thời kỳ Heian, sắc đẹp được coi là một trong những phần quan trọng của một người "tốt". Về mặt mỹ phẩm, đàn ông và phụ nữ quý tộc đã đánh phấn mặt và làm đen răng, sau này gọi là ohaguro . Lý tưởng lịch sự của đàn ông bao gồm một ria méprâu dê mỏng trong khi miệng của phụ nữ được vẽ nhỏ và đỏ. Lông mày của họ bị nhổ hoặc cạo và vẽ lại cao hơn trên trán ( hikimayu ).[cần dẫn nguồn]

Phụ nữ nuôi dưỡng mái tóc đen bóng mượt. Trang phục lịch sự của một người phụ nữ lịch sự bao gồm một "chiếc áo choàng mười hai lớp" phức tạp gọi là jūnihitoe , mặc dù số lượng lớp thực tế khác nhau. Trang phục được xác định theo địa vị và mùa, đặc biệt là áo choàng của phụ nữ, theo hệ thống kết hợp màu sắc đại diện cho hoa, cây và động vật cụ thể theo mùa hoặc tháng, (xem các mục Wikipedia tiếng Nhật ' 'irome' '' 'kasane-no-irome' ').[3]

Kinh tế[sửa | sửa mã nguồn]

Trong khi một mặt thời kỳ Heian là một giai đoạn hòa bình kéo dài bất thường, một mặt nó lại làm suy yếu nền kinh tế Nhật Bản và dẫn đến nghèo đói cho gần như mọi cư dân chỉ trừ một vài người thuộc giai tầng trên. Các quý tộc được hưởng lợi lộc từ nền văn hóa Heian, những Yokibito nghĩa là "người tốt" hay "người may mắn", có tổng số 5000 người ở đất nước có 5 triệu dân. Một lý do mà tầng lớp samurai có thể nắm quyền là giai cấp quý tộc thống trị thiếu khả năng quản lý nước Nhật và các tỉnh. Cho đến năm 1000 chính quyền không còn biết làm thế nào để phát hành tiền tệ nữa và tiền dần dần biến mất. Việc thiếu các phương tiện trung gian hữu hình để trao đổi kinh tế được minh họa rõ rệt trong các tiểu thuyết đương thời. Ví dụ như người đưa thư được thưởng những vật dụng hữu ích, như lụa kimono cũ, thay vì trả tiền.

Những kẻ thống trị Fujiwara đã thất bại trong việc duy trì lực lượng cảnh sát đầy đủ, khiến bọn cướp tự do bắt du khách. Điều này được minh họa ngầm trong tiểu thuyết bởi nỗi kinh hoàng khi đi lại vào ban đêm của các nhân vật chính. Hệ thống shōen cho phép tích lũy của cải của tầng lớp quý tộc; thặng dư kinh tế có thể được liên kết với sự phát triển văn hóa của thời Heian và "theo đuổi nghệ thuật".[4] Các ngôi chùa Phật giáo lớn trong Heian-kyōNara cũng đã sử dụng shōen.[5] Việc thành lập các chi nhánh một cách tự nhiên và tích hợp một số đền thờ Thần đạo trong các mạng lưới đền thờ này phản ánh một "sự năng động của tổ chức" lớn hơn.[5]

Các sự kiện[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Morris 1964 pp. 180, 182.
  2. ^ Morris 1964 pp. 183–184.
  3. ^ Toby 2009 p. 31.
  4. ^ Morris 1964 p. 79.
  5. ^ a b Collins 1997 p. 851.
  6. ^ Ponsonby-Fane 1962 pp. 203–204; also known as Fujiwara jidai.
  7. ^ Ponsonby-Fane 1962 p. 204.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Link liên quan[sửa | sửa mã nguồn]