Bước tới nội dung

Tu chính án thứ 24 Hiến pháp Hoa Kỳ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
Đại ấn Hoa Kỳ
Đại ấn Hoa Kỳ

Bài này là một phần trong loạt bài:
Hiến pháp Hoa Kỳ


Văn bản gốc Hiến pháp Hoa Kỳ
Lời mở đầu

Các điều khoản Hiến pháp
IIIIIIIVVVIVII

Các tu chính án Hiến pháp
Tuyên ngôn nhân quyền
IIIIIIIVV
VIVIIVIIIIXX

Các tu chính án sau
XI ∙ XII ∙ XIII ∙ XIV ∙ XV
XVI ∙ XVII ∙ XVIII ∙ XIX ∙ XX
XXI ∙ XXII ∙ XXIII ∙ XXIV ∙ XXV
XXVI ∙ XXVII


Tu chính án thứ 24 của Hiến pháp Hoa Kỳ cấm chính quyền liên bang, tiểu bang yêu cầu nộp thuế thân hoặc thuế khác để được bầu cử trong các cuộc bầu cử liên bang. Quốc hội đề xuất Tu chính án thứ 24 vào ngày 27 tháng 8 năm 1962 và việc phê chuẩn được hoàn tất vào ngày 23 tháng 1 năm 1964.

Những tiểu bang Nam Hoa Kỳ thuộc Liên minh miền Nam Hoa Kỳ cũ bắt đầu áp dụng thuế thân nhằm ngăn cản người Mỹ gốc Phi và người da trắng nghèo đi bầu cử khi Đảng Dân chủ giành lại chính quyền ở Nam Hoa Kỳ sau Thời kỳ Tái thiết. Năm 1937, Tòa án Tối cao xác nhận việc yêu cầu nộp thuế thân để đi bầu cử là phù hợp với Hiến pháp trong vụ Breedlove kiện Suttles.

Khi Tu chính án thứ 24 được phê chuẩn vào năm 1964, năm tiểu bang vẫn áp dụng thuế thân: Alabama, Arkansas, Mississippi, Texas và Virginia. Trong án lệ Harper kiện Hội đồng Bầu cử Tiểu bang Virginia (1966), Tòa án Tối cao phán quyết rằng việc áp dụng thuế thân tại bất cứ cuộc bầu cử nào là vi phạm Điều khoản Bảo vệ bình đẳng của Tu chính án thứ 14. Những vụ kiện tiếp theo liên quan đến các tác động phân biệt đối xử tiềm ẩn của các quy định pháp luật về đăng ký cử tri thường dựa trên việc áp dụng Tu chính án thứ 14 thay vì Tu chính án thứ 24.

Toàn văn

[sửa | sửa mã nguồn]

Khoản 1. Quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ trong các vòng bầu cử sơ bộ, hoặc trong các cuộc bầu cử Tổng thống hay Phó Tổng thống, cuộc bầu đại cử tri để bầu Tổng thống, Phó Tổng thống, thượng nghị sĩ hay hạ nghị sĩ trong Quốc hội, sẽ không bị phủ nhận hoặc hạn chế bởi Hoa Kỳ hay một bang nào với lý do không có khả năng nộp thuế thân hoặc thuế khác.

Khoản 2. Quốc hội có quyền thực thi điều này bằng luật lệ phù hợp.[1]

Bối cảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Lịch sử thuế thân tại Nam Hoa Kỳ (1868-1966)
  Thuế thân
  Thuế thân lũy kế (phải trả thuế thân nợ từ những năm trước thì mới được bầu cử)
  Không quy định thuế thân

Vào cuối thế kỷ 19, các tiểu bang Nam Hoa Kỳ bắt đầu yêu cầu nộp thuế thân để được đi bầu cử nhằm tước quyền bầu cử của người Mỹ gốc Phi mà không vi phạm Tu chính án thứ 15. Mặc dù trên lý thuyết, tất cả cử tri đều phải trả thuế thân, nhưng trên thực tế thì thuế thân tác động nặng nhất đến người nghèo mà chủ yếu là người Mỹ gốc Phi và thậm chí người da trắng nghèo. Những người ủng hộ thuế thân trấn an người da trắng rằng thuế thân sẽ không tác động đến họ. Từ thập niên 1890, những chính quyền Đảng Dân chủ bắt đầu ban hành thuế thân nhằm ngăn chặn một liên minh Đảng Nhân dân - Đảng Cộng hòa khác lên nắm quyền. Bất chấp bạo lực và gian lận bầu cử, người Mỹ gốc Phi vẫn trúng cử nhiều ghế tại địa phương. Đế năm 1902, tất cả 11 tiểu bang thuộc Liên minh miền Nam Hoa Kỳ cũ đã ban hành thuế thân cùng với những điều khoản khác nhằm ngăn cản việc đăng ký cử tri, chẳng hạn như kiểm tra đọc viết, hiểu biết do cán bộ da trắng thực hiện. Thuế thân được sử dụng cùng với những biện pháp khác như điều khoản tổ phụ, bầu cử sơ bộ người da trắng cũng như các mối đe dọa và hành vi bạo lực để loại trừ người da đen. Ví dụ: ở Arkansas, một người muốn đi bầu cử phải được "đánh giá" và người da đen luôn bị đánh trượt.[2]

Từ năm 1900 đến năm 1937, chính quyền liên bang hầu như không thừa nhận việc yêu cầu thuế thân. Một số tiểu bang bãi bỏ thuế thân trong giai đoạn này vì hai lý do: thứ nhất, thuế thân khuyến khích tham nhũng vì người giàu có thể nộp thuế thân thay cho người khác nhằm hối lộ họ bầu cho ứng cử viên của mình;[3][4] thứ hai, thuế thân ngăn cản người da trắng đi bầu cử nhiều hơn tính toán của các chính trị gia dân túy Nam Hoa Kỳ. Trong vụ kiện Breedlove kiện Suttles (năm 1937), Tòa án Tối cao xác nhận việc yêu cầu nộp thuế thân là phù hợp với Hiến pháp vì:

[Quyền] bỏ phiếu không bắt nguồn từ chính quyền liên bang, mà là các tiểu bang, và các tiểu bang có quyền tùy nghi đặt điều kiện cho việc thực hiện quyền bầu cử, miễn là trong giới hạn của Tu chính án thứ 15, Tu chính án thứ 19 và các điều khoản khác của Hiến pháp Hoa Kỳ.[5]

Vấn đề thuế thân tiếp tục nổi cộm vì hầu hết người Mỹ gốc Phi ở Nam Hoa Kỳ đều bị tước quyền bầu cử. Tổng thống Franklin D. Roosevelt công khai phản đối thuế thân, nhưng không vận động tích cực về vấn đề này nhằm tranh thủ sự ủng hộ của Đảng Dân chủ miền Nam để thông qua Chính sách kinh tế mới. Trong cuộc bầu cử sơ bộ năm 1938 ở Nam Hoa Kỳ, phe tự do trong Đảng Dân chủ được Roosevelt ủng hộ thất cử trước phe bảo thủ trong Đảng Dân chủ đang nắm chính quyền.[6] Những nỗ lực nhằm bãi bỏ thuế thân vẫn tiếp tục trong Quốc hội. Khối nghị sĩ miền Nam sử dụng thâm niên và vị trí chủ nhiệm những ủy ban quan trọng của Quốc hội để trì hoãn các nỗ lực bãi bỏ thuế thân. Năm 1939, Hạ viện thông qua một dự luật bãi bỏ thuế thân trong các cuộc bầu cử liên bang.[7] Tuy nhiên, Thượng viện không thông qua dự luật trước sự phản đối của khối thượng nghị sĩ miền Nam và một số thượng nghị sĩ miền Bắc cần sự ủng hộ của khối thượng nghị sĩ miền Nam. Dự luật được đệ trình lại tại những khóa Quốc hội tiếp theo. Dự luật gần như được thông qua trong Chiến tranh thế giới thứ hai để giúp quân lính ở nước ngoài được bỏ phiếu. Tuy nhiên, sau khi Tòa án Tối cao cấm tổ chức bầu cử sơ bộ người da trắng trong vụ Smith kiện Allwright (năm 1944), khối nghị sĩ miền Nam rút sự ủng hộ đối với dự luật.[8]

Nội dung cuộc tranh luận thay đổi vào thập niên 1940. Các chính trị gia miền Nam cố gắng đổi hướng vấn đề cấm thuế thân thành một vấn đề hiến pháp, nhưng các thư từ cho thấy việc tước quyền bầu cử của người da đen vẫn là chủ đích thực sự. Ví dụ: Thượng nghị sĩ Mississippi Theodore Bilbo viết rằng: "Nếu dự luật thuế thân được thông qua, bước tiếp theo sẽ là xóa bỏ điều kiện đăng ký, điều kiện trình độ học vấn của người da đen. Nếu điều đó được thực hiện thì chúng ta sẽ không còn cách nào ngăn cản người da đen đi bầu cử."[9]

Năm 1946, Tổng thống Harry S. Truman thành lập Ủy ban Tổng thống về Dân quyền với nhiệm vụ điều tra các vấn đề dân quyền, bao gồm thuế thân. Ủy ban đề xuất sửa đổi Hiến pháp nhằm cấm thuế thân vì phe phản đối đã lập luận rằng việc chính quyền liên bang cấm thuế thân vi phạm Hiến pháp. Tuy nhiên, không có nhiều nỗ lực thực hiện bãi bỏ thuế thân vào thập niên 1950. Phong trào chống thuế thân án binh bất động trong thời kỳ Nỗi sợ cộng sản, một phần vì một số nhân vật chủ chốt của phong trào, chẳng hạn như Joseph GeldersVito Marcantonio, theo chủ nghĩa Marx.[10]

Tổng thống John F. Kennedy thúc giục Quốc hội đề xuất một tu chính án hiến pháp cấm thuế thân như là cách tốt nhất để tránh bị Thượng viện cản trở.[11] Tại Quốc hội khóa 87, Spessard Holland, một thượng nghị sĩ thuộc phe bảo thủ của Đảng Dân chủ từ Florida, trình dự thảo tu chính án cấm thuế thân trước Thượng viện. Mặc dù Holland phản đối hầu hết các luật về dân quyền trong suốt sự nghiệp chính trị của mình, sự ủng hộ của ông đối với việc cấm thuế thân làm chia rẽ khối nghị sĩ miền Nam.[12][13] Việc phê chuẩn tu chính án diễn ra từ tháng 8 năm 1962 đến tháng 1 năm 1964.

Tổng thống Lyndon B. Johnson gọi Tu chính án thứ 24 là "chiến thắng của tự do".[14] Những tiểu bang từng áp dụng thuế thân có thái độ dè dặt hơn. Joseph Turner Patterson, Tổng chưởng lý Mississippi, cho rằng tu chính án làm phức tạp hệ thống bầu cử bằng cách phân loại cử tri thành hai nhóm: cử tri đã nộp thuế thân và có quyền bầu cử trong tất cả các cuộc bầu cử; và cử tri chưa nộp thuế thân và chỉ có quyền bầu cử trong các cuộc bầu cử liên bang.[14] Ngoài ra, các tiểu bang vẫn có thể ngăn cản cử tri không nộp thuế thân đi bầu cử liên bang bằng các quy định như phải đăng ký trước và xuất trình giấy tờ đăng ký.[15] Một số tiểu bang cũng tiếp tục áp dụng kiểm tra khả năng đọc viết một cách phân biệt đối xử.

Đề xuất và phê chuẩn

[sửa | sửa mã nguồn]
  Phê chuẩn tu chính án, 1962–1964
  Phê chuẩn tu chính án sau khi tu chính án được ban hành, 1977 (Virginia), 1989 (North Carolina), 2002 (Alabama), 2009 (Texas)
  Bác bỏ tu chính án
  Chưa phê chuẩn tu chính án
Nghị quyết liên tịch của Quốc hội đề xuất Tu chính án thứ 24

Quốc hội đề xuất Tu chính án thứ 24 vào ngày 27 tháng 8 năm 1962.[16][17] Kết quả biểu quyết tại Hạ viện là 295–86 (132–15 đối với Đảng Cộng hòa và 163–71 tại Đảng Dân chủ) với 54 hạ nghị sĩ biểu quyết trắng hoặc không biểu quyết,[18] trong khi kết quả biểu quyết tại Thượng viện là 77–16 (30–1 đối với Đảng Cộng hòa và 47–15 đối với Đảng Dân chủ) với 7 thượng nghị sĩ biểu quyết trắng hoặc không biểu quyết.[19] Tu chính án được đệ trình lên các tiểu bang phê chuẩn vào ngày 24 tháng 9 năm 1962.[14] Những tiểu bang sau đây phê chuẩn tu chính án:

  1. Illinois (ngày 14 tháng 11 năm 1962)
  2. New Jersey (ngày 3 tháng 12 năm 1962)
  3. Oregon (ngày 25 tháng 1 năm 1963)
  4. Montana (ngày 28 tháng 1 năm 1963)
  5. West Virginia (ngày 1 tháng 2 năm 1963)
  6. New York (ngày 4 tháng 2 năm 1963)
  7. Maryland (ngày 6 tháng 2 năm 1963)
  8. California (ngày 7 tháng 2 năm 1963)
  9. Alaska (ngày 11 tháng 2 năm 1963)
  10. Rhode Island (ngày 14 tháng 2 năm 1963)
  11. Indiana (ngày 19 tháng 2 năm 1963)
  12. Utah (ngày 20 tháng 2 năm 1963)
  13. Michigan (ngày 20 tháng 2 năm 1963)
  14. Colorado (ngày 21 tháng 2 năm 1963)
  15. Ohio (ngày 27 tháng 2 năm 1963)
  16. Minnesota (ngày 27 tháng 2 năm 1963)
  17. New Mexico (ngày 5 tháng 3 năm 1963)
  18. Hawaii (ngày 6 tháng 3 năm 1963)
  19. North Dakota (ngày 7 tháng 3 năm 1963)
  20. Idaho (ngày 8 tháng 3 năm 1963)
  21. Washington (ngày 14 tháng 3 năm 1963)
  22. Vermont (ngày 15 tháng 3 năm 1963)
  23. Nevada (ngày 19 tháng 3 năm 1963)
  24. Connecticut (ngày 20 tháng 3 năm 1963)
  25. Tennessee (ngày 21 tháng 3 năm 1963)
  26. Pennsylvania (ngày 25 tháng 3 năm 1963)
  27. Wisconsin (ngày 26 tháng 3 năm 1963)
  28. Kansas (ngày 28 tháng 3 năm 1963)
  29. Massachusetts (ngày 28 tháng 3 năm 1963)
  30. Nebraska (ngày 4 tháng 4 năm 1963)
  31. Florida (ngày 18 tháng 4 năm 1963)
  32. Iowa (ngày 24 tháng 4 năm 1963)
  33. Delaware (ngày 1 tháng 5 năm 1963)
  34. Missouri (ngày 13 tháng 5 năm 1963)
  35. New Hampshire (ngày 12 tháng 6 năm 1963)
  36. Kentucky (ngày 27 tháng 6 năm 1963)
  37. Maine (ngày 16 tháng 1 năm 1964)
  38. South Dakota (ngày 23 tháng 1 năm 1964)

Việc phê chuẩn Tu chính án thứ 24 hoàn tất vào ngày 23 tháng 1 năm 1964. Georgia nỗ lực vào phút chót để trở thành tiểu bang thứ 38 phê chuẩn tu chính án, mặc dù là một tiểu bang Nam Hoa Kỳ.[15] Thượng viện Georgia nhất trí phê chuẩn Tu chính án thứ 24, nhưng Hạ viện không hành động kịp thời trước khi South Dakota phê chuẩn tu chính án.[14]

Những tiểu bang sau đây phê chuẩn Tu chính án thứ 24 sau khi tu chính án được ban hành:

  1. Virginia (ngày 25 tháng 2 năm 1977)
  2. North Carolina (ngày 3 tháng 5 năm 1989)
  3. Alabama (ngày 11 tháng 4 năm 2002)
  4. Texas (ngày 22 tháng 5 năm 2009)

Tiểu bang sau đây bác bỏ Tu chính án thứ 24:

  1. Mississippi (ngày 20 tháng 12 năm 1962)

Những tiểu bang sau đây chưa phê chuẩn Tu chính án thứ 24:

  1. Arizona
  2. Arkansas
  3. Georgia
  4. Louisiana
  5. Oklahoma
  6. Nam Carolina
  7. Wyoming

Tác động

[sửa | sửa mã nguồn]

Trong số năm tiểu bang ban đầu chịu tác động của Tu chính án thứ 24, Arkansas là tiểu bang duy nhất bãi bỏ thuế thân. Arkansas bãi bỏ yêu cầu thuế thân đối với tất cả các cuộc bầu cử từ cuộc bầu cử tháng 11 năm 1964. Năm 2008, Arkansas xóa hoàn toàn những điều khoản về thuế thân khỏi hiến pháp.[20] Bốn tiểu bang còn lại tiếp tục áp dụng thuế thân cho đến án lệ Harper kiện Hội đồng Bầu cử Tiểu bang Virginia (năm 1966), khi Tòa án Tối cao xác định rằng việc yêu cầu thuế thân tại bất cứ cuộc bầu cử nào là vi phạm Hiến pháp. Những tòa án quận liên bang tại Alabama và Texas hủy bỏ thuế thân của các tiểu bang này chưa đầy hai tháng trước khi Tòa án Tối cao công bố phán quyết Harper.

Virginia cố gắng lách quy định của Tu chính án thứ 24 bằng cách yêu cầu người muốn đi bầu cử phải xin giấy chứng nhận cư trú sáu tháng trước ngày bầu cử và cung cấp bản sao giấy chứng nhận cư trú tại thời điểm bỏ phiếu thay vì trả thuế thân. Biện pháp này được dự đoán sẽ làm giảm số lượng cử tri. Trong án lệ Harman kiện Forssenius (năm 1965) Tòa án Tối cao nhất trí xác định quy định của Virginia là vi phạm Tu chính án thứ 24.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ "Twenty - fourth Amendment to the Constitution" (PDF). GovInfo. United States Government Printing Office. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2025.
  2. ^ Ogden 1958, tr. 30.
  3. ^ Kneebone, John T. (2011). Southern Liberal Journalists and the Issue of Race, 1920–1944 (bằng tiếng Anh). USA: The University of North Carolina Press. tr. 142. ISBN 0807865559.
  4. ^ Sullivan, Patricia (1996). Days of Hope: Race and Democracy in the New Deal Era (bằng tiếng Anh). USA: The University of North Carolina Press. tr. 107. ISBN 0807845647.
  5. ^ United States Supreme Court (1937). "Breedlove v. Suttles, 302 U.S. 277". Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2025.
  6. ^ Lawson 1976, tr. 57.
  7. ^ Lawson 1976, tr. 68.
  8. ^ Lawson 1976, tr. 74.
  9. ^ Lawson 1976, tr. 70.
  10. ^ Lawson 1976, tr. 82.
  11. ^ Lawson 1976, tr. 290.
  12. ^ "Spessard L. Holland Dies at 79; Former Senator From Florida" (PDF). The New York Times. ngày 7 tháng 11 năm 1971. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2011.
  13. ^ Ackerman, Bruce; Nou, Jennifer (2009). "Canonizing the Civil Rights Revolution: The People and the Poll Tax". Chicago Unbound. 103 (1): 78–79 – qua University of Chicago Law School.
  14. ^ a b c d "24th Amendment, Banning Poll Tax, Has Been Ratified" (PDF). The New York Times. United Press International. ngày 24 tháng 1 năm 1964. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2011.
  15. ^ a b "End of the Poll Tax". The Milwaukee Journal. ngày 26 tháng 1 năm 1964. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2011.
  16. ^ Mount, Steve (tháng 1 năm 2007). "Ratification of Constitutional Amendments". Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2008.
  17. ^ "Historical Highlights: The 24th Amendment". History, Art & Archives. United States House of Representatives. ngày 27 tháng 8 năm 1962. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2025.
  18. ^ "H.R. 193 – House Vote #193 – 87th Congress, 2nd Session". Tracking Congress & the White House. ngày 27 tháng 8 năm 1962. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2025.
  19. ^ "S.J. Res. 29 – Approval of resolution banning the poll tax as prerequisite for voting in federal elections: Senate Vote #226 – 87th Congress, 2nd Session". Tracking Congress & the White House. ngày 27 tháng 3 năm 1962. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2025.
  20. ^ "Arkansas Code – Free Public Access". Code of Arkansas Public Access. LexisNexis. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2025.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]