Tân An

Tân An
Thành phố thuộc tỉnh
Thành phố Tân An
Một góc trung tâm thành phố Tân An bên sông Vàm Cỏ Tây
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
VùngĐồng bằng sông Cửu Long
TỉnhLong An
Trụ sở UBND76 Hùng Vương, Phường 2[1]
Phân chia hành chính9 phường, 5 xã
Thành lập24/8/2009
Loại đô thịLoại II
Năm công nhận2019[2]
Tổ chức lãnh đạo
Chủ tịch UBNDNguyễn Quang Thái[3]
Chủ tịch HĐNDLê Công Đỉnh
Bí thư Thành ủyLê Công Đỉnh
Địa lý
Tọa độ: 10°31′B 106°13′Đ / 10,52°B 106,22°Đ / 10.52; 106.22
MapBản đồ thành phố Tân An
Tân An trên bản đồ Việt Nam
Tân An
Tân An
Vị trí thành phố Tân An trên bản đồ Việt Nam
Diện tích81,94 km²
Dân số (2022)
Tổng cộng207.120 người[4]
Thành thị166.489 người (82%)
Nông thôn40.631 người (18%)
Mật độ2.527 người/km²
Dân tộcKinh, Hoa, Khmer
Khác
Mã hành chính794[5]
Biển số xe62-B1
Websitetanan.longan.gov.vn

Tân Anthành phố tỉnh lỵ của tỉnh Long An, Việt Nam.

Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Là đô thị cửa ngõ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tân An cũng từng là tỉnh lỵ của tỉnh Tân An cũ trước năm 1956.

Tân An là đầu mối giao thông quan trọng trong vùng, từ trung tâm thành phố, có Quốc lộ 1 đi Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Quốc lộ 62 dẫn lên vùng Đồng Tháp Mười. Đầu năm 2010, đường cao tốc CT01 Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương đi vào hoạt động, tuyến đường này cắt qua Quốc lộ 62 cách trung tâm thành phố khoảng 4 km, là một trong những tuyến đường quan trọng tạo động lực cho thành phố phát triển. Đến Tân An, du khách có thể tham quan các di tích lịch sử văn hoá như bảo tàng Long An, chùa Long Châu, chùa Thiên Khánh... cùng nhiều địa điểm khác.

Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Trung tâm thành phố Tân An

Vị trí địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phố Tân An nằm về phía tây nam của tỉnh Long An, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 47 km có vị trí địa lý:

Theo thống kê năm 2019, thành phố có diện tích 81,94 km², dân số là 145.120 người, mật độ dân số đạt 1.771 người/km²[4]. Phường 1 là trung tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của thành phố.

Thành phố Tân An là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật của tỉnh Long An[1]. Thành phố vừa nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam, vừa là cửa ngõ kinh tế của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, có trục giao thông chính thủy bộ chạy qua trung tâm là Quốc lộ 1, Quốc lộ 62 và sông Vàm Cỏ Tây.

Điều kiện tự nhiên[sửa | sửa mã nguồn]

Thời tiết - Khí hậu[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phố Tân An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, cận xích đạo, nền nhiệt độ cao và ổn định. Khí hậu chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Nhiệt độ trung bình năm là 27,9 °C. Độ ẩm tương đối ổn định trong năm với mức bình quân là 79,2%. Lượng mưa trung bình là 1.532mm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 11 chiếm khoảng 91,7% tổng lượng mưa cả năm[1].

Thủy văn[sửa | sửa mã nguồn]

Hệ thống sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn thành phố khá chằng chịt mang sắc thái của vùng đồng bằng sông Cửu Long và chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều của biển Đông. Biên độ triều cực đại trong tháng từ 217– 235 cm, đỉnh triều cực đại tháng 12 là 150 cm. Một chu kỳ triều khoảng 13-14 ngày. Do gần cửa biển, biên độ triều lớn, đỉnh triều vào đầu mùa gió chướng nên sông rạch thường bị xâm nhập mặn[1].

Về mùa lũ sông Vàm Cỏ Tây vừa chịu ảnh hưởng của thủy triều, vừa chịu ảnh hưởng của lũ ở vùng Đồng Tháp Mười tràn về. Mùa khô từ tháng 2 đến tháng 6 nước sông Vàm Cỏ Tây bị nhiễm mặn. Tháng 5 có độ mặn cao nhất 5,489g/lít, tháng 1 có độ mặn 0,079g/l. Độ pH trong nước sông Vàm Cỏ Tây từ tháng 6 đến tháng 8 khoảng 3,8 - 4,3 nên không thể sử dụng cho sản xuất và sinh hoạt.

Địa hình[sửa | sửa mã nguồn]

Địa hình Thành phố Tân An mang đặc điểm chung vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Nơi đây địa hình được bồi đắp liên tục và đều đặn dẫn đến sự hình thành đồng bằng có bề mặt bằng phẳng và nằm ngang. Độ cao tuyệt đối biến đổi từ 0,5– 2 m (hệ Mũi Nai) và trung bình là 1-1,6 m. Đặc biệt lộ ra một vùng cát từ Tiền Giang qua Tân Hiệp lên đến Xuân Sanh (Lợi Bình Nhơn) với độ cao thường biến đổi từ 1–3 m[1].

Hầu hết phần diện tích đất ở hiện hữu không bị ngập úng, rải rác có những điểm trũng dọc theo hai bên bờ sông rạch bị ngập nước về mùa mưa. Nhìn chung địa hình Thành phố tương đối thấp, dễ bị tác động khi triều cường hoặc khi lũ Đồng Tháp Mười tràn về.

Tài nguyên[sửa | sửa mã nguồn]

Tài nguyên nước mặt ở Long An khá phong phú, sông Vàm Cỏ Tây đoạn chảy qua Tân An có chiều dài 15,8 km, độ sâu trung bình 15 m, nguồn nước chủ yếu do sông Tiền tiếp sang qua kênh Hồng Ngự và kênh Cái Cỏ. Kênh Bảo Định từ sông Vàm Cỏ Tây nối sông Tiền tại thành phố Mỹ Tho. Ngoài ra còn có Rạch Chanh, Rạch Châu Phê, Rạch Bình Tâm, Rạch Cần Đốt.

Nhìn chung nguồn nước mặt không thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt do bị nhiễm mặn, phèn và ô nhiễm chất thải. Nước mưa 1.200-1.600 mm/năm là nguồn bổ sung quan trọng cho nguồn nước mặt[1].

Chất lượng nước ngầm ở Tân An được đánh giá là khá tốt, đủ tiêu chuẩn sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt. Kết quả phân tích một số mẫu nước ngầm ở thành phố cho thấy độ H=5,3-7,8; C=8–200 mg/l; lượng sắt tổng số Fe= 1.28- 41.8 mg/l. Theo số liệu khảo sát và tính toán của liên đoàn 8 địa chất thủy văn, trữ lượng nước ngầm của thành phố Tân An là trên 133.000 m 3 /ngày đêm. Riêng phường Khánh Hậu, thành phố Tân An có mỏ nước khoáng ở độ sâu 400m đang được khai thác.

Đất đai[sửa | sửa mã nguồn]

Đất ở thành phố Tân An biến đổi mạnh theo địa hình. Khoảng 86,13% diện tích đất thuộc nhóm đất phù sa ngọt đang phát triển mạnh, còn lại là diện tích đất phèn. Có thể chia thành năm loại đất chính như sau:

  • Đất phù sa đang phát triển tầng mặt giàu hữu cơ là 284,43 ha chiếm 3,47% so với tổng diện tích tự nhiên, phân bố rải rác trên địa hình trung bình đến hơi cao ở phường Khánh Hậu và xã An Vĩnh Ngãi. Loại đất này thích nghi nhiều loại cây trồng nên có tiềm năng đa dạng hóa rất cao.
  • Đất phù sa phát triển sâu, điển hình, bão hòa nước ngầm là 4.507,72 ha, chiếm 55,02% diện tích tự nhiên. Đất phát triển từ vật liệu phù sa mới, trầm tích nước ngọt có địa hình cao và phân bố thành các vùng lớn ở khắp địa bàn thành phố. Loại đất này thích nghi nhiều loại cây trồng và có tiềm năng đa dạng hóa cây trồng rất cao.
  • Đất phù sa phát triển sâu, bảo hòa nước ngầm là 1.994,09 ha chiếm 24,34% tổng diện tích tự nhiên. Mẫu chất là trầm tích phù sa mới, được hình thành và phát triển trong môi trường nước ngọt, phân bố trên địa hình cao, rãi rác trong địa bàn thành phố.
  • Đất phèn tiềm tàng là 267,43 ha, chiếm 3,26% tổng diện tích tự nhiên. Phân bố trên địa hình trung bình ở phường Lợi Bình Nhơn, xã Hướng Thọ Phú và dọc sông Vàm Cỏ Tây.
  • Đất phèn hoạt động là 152,19 ha chiếm 1,86% tổng diện tích tự nhiên, phân bố ở trung tâm xã Hướng Thọ Phú, đất có địa hình trung bình thấp so với chung quanh.

Là một địa bàn hình thành khá lâu nên phần lớn diện tích đất tự nhiên của thành phố Tân An được sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế xã hội. Tuy là tỉnh lị của tỉnh Long An nhưng phần lớn diện tích đất tự nhiên được bố trí cho mục đích nông nghiệp (khoảng 72%). Diện tích đất chuyên dùng chiếm chưa đến 11%. Tổng diện tích đất sử dụng cho đô thị chiếm khoảng 27% tổng diện tích tự nhiên. Mức độ phát triển đô thị trên địa bàn thành phố tương đối thấp, chưa đạt yêu cầu là trung tâm tỉnh lị.

Dân số[sửa | sửa mã nguồn]

Dân số thành phố đạt 181.327 người (2019). Tốc độ tăng dân số bình quân giai đoạn 1989 -1999 là 1,27%, thấp hơn so với mức bình quân của tỉnh (1,55%). Mật độ dân số trung bình của thành phố là 2219 người/km².

Lao động trong độ tuổi năm 1999 là 71.927 người chiếm tỷ lệ 63% dân số, trong đó lao động trong khu vực I chiếm 28%, lao động trong khu vực II chiếm 13,6% và lao động trong khu vực III chiếm 42% trong tổng số lao động, cho thấy mức độ tham gia sản xuất của khu vực thương mại - dịch vụ khá cao. Lao động gia tăng bình quân hàng năm khoảng 2.800 người/năm, trong đó lao động thất nghiệp giảm dần từ năm 1991 là 11.034 người (18%) đến năm 1999 còn khoảng 4.479 người (7%).

Hiện nay trên địa bàn thành phố Tân An đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Green City Long An, khu đô thị ven sông Vàm Cỏ...

Hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phố Tân An có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 9 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, Khánh Hậu, Tân Khánh và 5 xã: Bình Tâm, Lợi Bình Nhơn, An Vĩnh Ngãi, Hướng Thọ Phú, Nhơn Thạnh Trung.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thời phong kiến[sửa | sửa mã nguồn]

Đầu thế kỷ XVII, Tân An thuộc Chân Lạp. Năm 1620, chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp, cư dân người Việt bắt đầu có mặt ở vùng đất mới phương Nam. Qua một thời gian dài, địa bàn khai phá được mở rộng hơn và ngày càng có những thay đổi đáng kể về diện mạo. Năm 1698, khi Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, toàn bộ vùng đất mới phương Nam được đặt thành phủ Gia Định. Lúc bấy giờ địa bàn Tân An ngày nay trực thuộc tổng Thuận An, huyện Tân Bình, dinh Phiên Trấn, phủ Gia Định.

Theo Gia Định thành thông chí, năm 1705 Thống suất Nguyễn Cửu Vân - tướng của chúa Nguyễn - sau khi giúp vua Chân Lạp đánh bại quân Xiêm đã cho đóng quân tại Vũng Gù (vùng chợ Tân An ngày nay) và cho đào kênh, lập đồn điền, xây đồn lũy phòng vệ. Đến cuối thế kỷ XVIII, vùng này trở nên trù phú, dân cư đông đúc. Năm 1802, vua Gia Long cho đổi Gia Định phủ thành Gia Định trấn gồm 4 dinh và 1 trấn. Năm 1808 Gia Định trấn lại đổi thành Gia Định thành, dinh Phiên Trấn đổi thành trấn Phiên An. Lúc bấy giờ, vùng Tân An ngày nay trực thuộc huyện Thuận An, phủ Tân Bình, trấn Phiên An.

Thời vua Minh Mạng, năm 1832 Gia Định thành bị giải thể, 5 trấn đổi thành 6 tỉnh. Trấn Phiên An được đổi thành tỉnh Phiên An gồm 2 phủ: phủ Tân Bình và phủ Tân An. Phủ Tân An gồm 2 huyện: huyện Phước Lộc và huyện Cửu An (do huyện Thuận An đổi tên thành). Địa bàn thành phố Tân An hiện nay bao gồm đất đai hai bên sông Vàm Cỏ Tây, thuộc huyện Cửu An, phủ Tân An, tỉnh Phiên An và sau đó là tỉnh Gia Định. Phủ lỵ phủ Tân An đặt tại thôn Bình Khuê, huyện Cửu An (có tài liệu viết là Bình Quê, Bình Khuể - nay là xã Quê Mỹ Thạnh - huyện Tân Trụ).

Thời Pháp thuộc[sửa | sửa mã nguồn]

Với Hòa ước Nhâm Tuất (1862), triều đình Huế nhượng hẳn 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường) cho thực dân Pháp làm thuộc địa. Chính quyền thực dân Pháp chia 3 tỉnh này thành 13 thành các hạt thanh tra (inspection), do các viên chức Pháp ngạch thanh tra các công việc bản xứ (inspecteur des affaires indigeânes) đứng đầu, nhưng tạm thời vẫn giữ cơ cấu phủ huyện cũ.

Ngày 9 tháng 11 năm 1864, thực dân Pháp thành lập các khu thanh tra sau trên địa bàn phủ Tân An cũ:

  • Khu thanh tra Tân An: thành lập trên địa bàn hai huyện Cửu An và Tân Thạnh của phủ Tân An;
  • Khu thanh tra Phước Lộc: thành lập trên địa bàn huyện Phước Lộc của phủ Tân An, sau đổi tên là khu thanh tra Cần Giuộc vào ngày 16 tháng 8 năm 1867, rồi giải thế nhập vào khu thanh tra Chợ Lớn và khu thanh tra Tân An vào ngày 5 tháng 6 năm 1871;
  • Khu thanh tra Tân Hòa: thành lập trên địa bàn huyện Tân Hòa của phủ Tân An, sau đổi tên là khu thanh tra Gò Công ngày 16 tháng 8 năm 1867.

Sau khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ, năm 1868, chính quyền thực dân Pháp bãi bỏ các đơn vị hành chính phủ, huyện, phân chia lại toàn bộ cõi Nam Kỳ. Các hạt thanh tra về sau cũng được đổi thành hạt tham biện (arrondissement), do các Chánh tham biện (administrateur) người Pháp đứng đầu. Tuy vậy, chính quyền thực dân Pháp vẫn giữ lại cơ cấu hành chính cấp thấp như tổng, xã thôn.

Năm 1863, phủ lỵ Tân An được dời từ thôn Bình Khuê về thôn Nhơn Thạnh (nay là thuộc địa bàn phường 5, thành phố Tân An)

Năm 1865, phủ Tân An đổi thành hạt Tân An. Năm 1869, lỵ sở của hạt chuyển về thôn Bình Lập (thôn này được vua Tự Đức ban sắc phong vào năm 1852).

Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Tân An trở thành tỉnh Tân An. Tỉnh lỵ Tân An đặt tại làng Bình Lập thuộc quận Châu Thành.

Ban đầu, tỉnh Tân An gồm 3 quận: Châu Thành, Thủ ThừaMộc Hóa. Ngày 20 tháng 11 năm 1952, lập thêm quận Tân Trụ thuộc tỉnh Tân An.

Thời Việt Nam Cộng hòa[sửa | sửa mã nguồn]

Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Tân An như thời Pháp thuộc.

Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 17 tháng 2 năm 1956, theo Sắc lệnh 21-NV, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tách toàn bộ quận Mộc Hóa và một phần đất đai quận Thủ Thừa ra khỏi tỉnh Tân An, đồng thời hợp với một phần nhỏ đất đai của tỉnh Sa Đéctỉnh Mỹ Tho để thành lập mới tỉnh Mộc Hóa.

Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lị tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Mộc Hóa được đổi tên thành tỉnh Kiến Tường, còn phần đất đai còn lại của tỉnh Tân An hợp nhất với phần lớn đất đai tỉnh Chợ Lớn để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh Long An. Tỉnh lỵ tỉnh Long An đặt tại Tân An và vẫn giữ nguyên tên là "Tân An", về mặt hành chánh thuộc xã Bình Lập, quận Châu Thành.

Tỉnh Long An bao gồm 7 quận: Bến Lức, Đức Hòa, Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành, Thủ Thừa, Tân Trụ. Ngày 03 tháng 10 năm 1957, quận Châu Thành được đổi tên thành quận Bình Phước, địa bàn Tân An ngày nay chính là xã Bình Lập thuộc quận Bình Phước khi đó.

Từ năm 1975 đến nay[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1976, tỉnh Long An (mới) được thành lập trên cơ sở sáp nhập 2 tỉnh Long An (cũ) và Kiến Tường, cùng với 2 huyện Đức Hoà, Đức Huệ của tỉnh Hậu Nghĩa; tỉnh Long An được sắp xếp lại địa giới hành chính.

Cùng năm, tách đất xã Bình Lập của quận Bình Phước (tức huyện Châu Thành ngày nay) lập thị xã Tân An gồm có 4 phường: 1, 2, 3, 4.

Ngày 14 tháng 1 năm 1983, thị xã Tân An nhận thêm 3 xã Nhơn Thạnh Trung, Bình Tâm, An Vĩnh Ngãi tách ra từ huyện Vàm Cỏ và 3 xã Hướng Thọ Phú, Khánh Hậu, Lợi Bình Nhơn tách từ huyện Bến Thủ.[6]

Ngày 24 tháng 3 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 27/CP[7], về việc điều chỉnh địa giới huyện, xã thuộc tỉnh Long An. Theo đó, tách 282,5 ha diện tích tự nhiên với 3.528 nhân khẩu của xã Hướng Thọ Phú; 193 ha diện tích tự nhiên với 2.695 nhân khẩu của xã Nhơn Thạnh Trung để thành lập phường 5, thị xã Tân An.

Ngày 19 tháng 5 năm 1998, lập thêm phường 6 từ xã Lợi Bình Nhơn[8]. Cuối năm 2004, thị xã Tân An bao gồm 6 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 6 xã: Hướng Thọ Phú, Nhơn Thạnh Trung, Lợi Bình Nhơn, Bình Tâm, Khánh HậuAn Vĩnh Ngãi.

Ngày 19 tháng 6 năm 2006, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 60/2006/NĐ-CP[9], về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường; thành lập phường thuộc thị xã Tân An, tỉnh Long An. Theo đó:

  • Thành lập phường 7 trên cơ sở điều chỉnh 185,09 ha diện tích tự nhiên và 1.475 nhân khẩu của xã An Vĩnh Ngãi; 45,65 ha diện tích tự nhiên và 343 nhân khẩu của xã Bình Tâm; 141,93 ha diện tích tự nhiên và 2.410 nhân khẩu của phường 3.
  • Thành lập phường Tân Khánh trên cơ sở điều chỉnh 696 ha diện tích tự nhiên và 5.523 nhân khẩu của xã Khánh Hậu.
  • Thành lập phường Khánh Hậu trên cơ sở diện tích tự nhiên và nhân khẩu còn lại của xã Khánh Hậu.

Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thị xã Tân An có 8.179,3 ha diện tích tự nhiên và 121.337 nhân khẩu, có 14 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm các phường: Phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường 5, phường 6, phường 7, phường Tân Khánh, phường Khánh Hậu và các xã: Hướng Thọ Phú, Nhơn Thạnh Trung, Lợi Bình Nhơn, Bình Tâm, An Vĩnh Ngãi.

Ngày 19 tháng 4 năm 2007, thị xã Tân An được công nhận là đô thị loại III.

Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 38/NQ-CP[10], về việc nâng cấp thị xã Tân An thành thành phố Tân An thuộc tỉnh Long An. Thành phố Tân An có diện tích tự nhiên 8.194,94 ha và 166.419 nhân khẩu, 14 đơn vị hành chính cấp xã, gồm các phường: Phường 1, phường 2, phường 3, phường 4, phường 5, phường 6, phường 7, Khánh Hậu, Tân Khánh và các xã: Hướng Thọ Phú, An Vĩnh Ngãi, Lợi Bình Nhơn, Bình Tâm, Nhơn Thạnh Trung.

Ngày 5 tháng 9 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1140/QĐ-TTg công nhận thành phố Tân An là đô thị loại II thuộc tỉnh Long An.[2]

Giao thông[sửa | sửa mã nguồn]

Các trục giao thông chính của Long An là QL.1, Tuyến Cao tốc TPHCM - Trung Lương, Tuyến tránh QL.1, QL62, ĐT833, ĐT834, ĐT827A, Đường Châu Thị Kim, Đường Nguyễn Thông. Đây là những tuyến đường giao thông huyết mạch, nối kết thành phố với các huyện trong tỉnh và các tỉnh trong vùng. Trong nội ô Tân An đang tích cực mở đường, nâng cấp chỉnh trang bộ mặt đô thị. Nhiều dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng đang được thực hiện nhanh chóng:

  • Dự án đường Vành đai ngoài và cầu qua sông Vàm Cỏ Tây (thông xe toàn tuyến cuối năm 2023).
  • Dự án đường Hùng Vương nối dài (đoạn Phường 3 đến Bình Tâm)
  • Dự án đường Vành đai trong
  • Các dự án kè sông Vàm Cỏ Tây (đoạn P1, P2, P3, P5, P6, xã Lợi Bình Nhơn và xã Hướng Thọ Phú)
  • Các dự án kè sông Bảo Định (đoạn P3, P4, P7, P. Tân Khánh và xã An Vĩnh Ngãi)

Các con đường bị đổi tên ở thành phố Tân An

Đường Gia Long và Thái Lập Thành nay là đường Nguyễn Huệ.

Đại lộ Nguyễn Huỳnh Đức nay là đường Trương Định.

Đại lộ Thống Nhứt và Thủ tướng Thinh nay là đường Nguyễn Trung Trực.

Đường Nguyễn Trung Trực nay là đường Võ Văn Tần.

Đường Lê Văn Duyệt nay là đường Nguyễn Duy.

Đường Quang Trung nay là đường Trương Công Xưởng.

Đường Phan Thanh Giản nay là đường Phan Văn Đạt.

Đường Võ Tánh nay là một phần đường Nguyễn Đình Chiểu.

Đường Trưng Nữ Vương nay là đường Hai Bà Trưng.

Đường Lê Phát Thanh nay là đường Ngô Quyền.

Đường Trương Vĩnh Ký nay là đường Võ Công Tồn.

Đại lộ Cộng Hòa nay là đường Cách Mạng Tháng 8.

Đường Phan Châu Trinh nay là đường Lý Công Uẩn.

Đường Bartol nay là đường Nguyễn Thái Học.

Di tích[sửa | sửa mã nguồn]

Hình thành từ cuối thế kỷ thứ 17 từ nhiều nguồn nên cộng đồng dân cư thành phố Tân An có kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm sản xuất và vốn văn hóa dân gian cũng đa dạng phong phú. Tuy quy mô không lớn nhưng thành phố Tân An cũng khá nổi tiếng ở miền Nam với những nét độc đáo về cảnh sắc, về phong cách sinh hoạt, và là nơi hội tụ văn hóa văn nghệ mang đậm nét bản sắc dân tộc. Đây cũng là nơi có khá nhiều di tích lịch sử văn hóa như lăng Nguyễn Huỳnh Đức và gần 100 ngôi đình chùa, miếu.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f “Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thành phố Tân An, Long An”. theo website Tỉnh Long An. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2012.
  2. ^ a b “Quyết định số 1140/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Tân An là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Long An”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  3. ^ [1][liên kết hỏng] theo website Tỉnh Long An
  4. ^ a b Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương. “Dân số Việt Nam đến ngày 01 tháng 4 năm 2019”. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2020.
  5. ^ Tổng cục Thống kê
  6. ^ Quyết định 05-HĐBT năm 1983 về việc phân vạch địa giới một số huyện, xã và thị xã thuộc tỉnh Long An do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
  7. ^ Nghị định 27-CP năm 1994 về việc điều chỉnh địa giới huyện, xã thuộc tỉnh Long An
  8. ^ Nghị định 32/1998/NĐ-CP về việc thành lập phường 6 thị xã Tân An, tỉnh Long An
  9. ^ Nghị định 60/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường; thành lập phường thuộc thị xã Tân An, tỉnh Long An
  10. ^ Nghị quyết số 38/NQ-CP về việc thành lập thành phố Tân An thuộc tỉnh Long An do Chính phủ ban hành