USS Billfish (SS-286)
![]() Tàu ngầm USS Billfish (SS-286)
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Tên gọi | USS Billfish |
Đặt tên theo | tên chung của nhiều loài trong bộ Cá láng và họ Cá cờ [1] |
Xưởng đóng tàu | Xưởng hải quân Portsmouth, Kittery, Maine[2] |
Đặt lườn | 23 tháng 7, 1942 [2] |
Hạ thủy | 12 tháng 11, 1942 [2] |
Người đỡ đầu | bà Lewis Parks |
Nhập biên chế | 20 tháng 4, 1943 [2] |
Xuất biên chế | 1 tháng 11, 1946 [2] |
Xếp lớp lại | AGSS-286, 1 tháng 12, 1962[3] |
Xóa đăng bạ | 1 tháng 4, 1968 [2] |
Danh hiệu và phong tặng | 7 × Ngôi sao Chiến trận |
Số phận | Bán để tháo dỡ, 17 tháng 3, 1971 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Balao |
Kiểu tàu | tàu ngầm Diesel-điện |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 311 ft 9 in (95,02 m) [4] |
Sườn ngang | 27 ft 3 in (8,31 m) [4] |
Mớn nước | 16 ft 10 in (5,13 m) tối đa [4] |
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa | 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[7] |
Tầm hoạt động |
|
Độ sâu thử nghiệm | 400 ft (120 m)[7] |
Thủy thủ đoàn tối đa | 10 sĩ quan, 70 thủy thủ[7] |
Hệ thống cảm biến và xử lý | |
Vũ khí |
|
USS Billfish (SS-286/AGSS-286) là một tàu ngầm lớp Balao từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chung của nhiều loài trong bộ Cá láng và họ Cá cờ.[1] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng tám chuyến tuần tra, đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 4.332 tấn,[10] rồi được cho ngừng hoạt động sau khi xung đột chấm dứt vào năm 1946. Sau khi phục vụ trong thành phần dự bị như một tàu huấn luyện, con tàu được xếp lại lớp như một tàu ngầm phụ trợ AGSS-286 vào năm 1962, rồi cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1971. Billfish được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên tàu ngầm lớp Gato dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận.[11] Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến 400 ft (120 m).[8][12] Con tàu dài 311 ft 9 in (95,02 m) và có trọng lượng choán nước 1.526 tấn Anh (1.550 t) khi nổi và 2.424 tấn Anh (2.463 t) khi lặn.[5] Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện,[5][6] đạt được công suất 5.400 shp (4.000 kW) khi nổi và 2.740 shp (2.040 kW) khi lặn,[5] cho phép đạt tốc độ tối đa 20,25 hải lý trên giờ (37,50 km/h) và 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) tương ứng.[7] Tầm xa hoạt động là 11.000 hải lý (20.000 km) khi đi trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h) và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.[7]
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm), gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber.[7] Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển.[8] Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.[13][14]
Billfish được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 23 tháng 7, 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 12 tháng 11, 1942, được đỡ đầu bởi bà Lewis Parks, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 4, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Frederic Colby Lucas, Jr.[1][3][15]
Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]
1943[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại các vùng biển ngoài khơi New London, Connecticut và Newport, Rhode Island, Billfish chuẩn bị để được điều động sang khu vực Mặt trận Thái Bình Dương. Nó khởi hành từ Căn cứ Tàu ngầm Hải quân New London, băng qua kênh đào Panama và đi đến Brisbane, Australia vào ngày 1 tháng 8, 1943.[1]
Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]
Khởi hành từ Brisbane vào ngày 12 tháng 8 cho chuyến tuần tra đầu tiên, Billfish đi ngang qua Darwin, Australia để đi đến khu vực Đông Ấn thuộc Hà Lan. Lúc sau nữa đêm ngày 29 tháng 8, nó truy đuổi một tàu chở dầu không được hộ tống gần eo biển Balobac, nhưng mục tiêu chạy zig-zag ra khỏi tầm nhìn. Đến chiều tối hôm đó, nó phóng một loạt ngư lôi vào một mục tiêu khác, nhưng các quả ngư lôi đi bên dưới con tàu. Đến sáng ngày 8 tháng 9, nó phát hiện một đoàn năm tàu buôn đang di chuyển dọc bờ biển Đông Dương thuộc Pháp, truy đuổi chúng cho đến xế chiêu rồi phóng một loạt ngư lôi tấn công, ghi nhận được một vụ nổ. Chiếc tàu ngầm phải lặn xuống để né tránh phản công bằng mìn sâu từ tàu hộ tống đối phương, nên không thể đánh giá kết quả. Đến sáng sớm ngày 25 tháng 9, nó trông thấy một đoàn năm tàu buôn đối phương, nhưng không thể đi đến vị trí tấn công; dù sao nó cũng chuyển thông tin đến Bowfin (SS-287), và chiếc tàu ngầm chị em đã đánh chìm được tàu chở hành khách Kirishima Maru (8.120 tấn). Không bắt gặp mục tiêu nào khác, Billfish quay trở về Fremantle vào ngày 10 tháng 10 để được tái trang bị.[1]
Chuyến tuần tra thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]
Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 1 tháng 11 đến ngày 24 tháng 12, Billfish hướng đến khu vực Đông Ấn thuộc Hà Lan, và vùng biển phía Bắc Borneo để đi đến vùng bờ biển Đông Dương thuộc Pháp. Trong eo biển Makassar vào ngày 11 tháng 11, một tàu khu trục Nhật Bản đã tấn công bằng mìn sâu và gây hư hại nặng cho Billfish, khiến nó chìm xuống đến độ sâu 650 foot (200 m), gần gấp đôi khả năng lặn thông thường. Đại úy Hải quân Charles W. Rush đã khéo léo di chuyển lui con tàu ngược hướng vệt dầu bị rò rỉ để đánh lừa đối phương, và cuối cùng thoát khỏi đợt truy đuổi kéo dài 12 giờ. Trồi lên mặt nước bốn giờ sau đó, dưới sự che chở của bóng đêm, chiếc tàu ngầm nạp lại điện cho ăc quy và tiến hành sửa chữa để có thể tiếp tục chuyến tuần tra.[1]
Sau khi đi đến khu vực biển Đông vào ngày 16 tháng 11, Billfish hoạt động phối hợp cùng Bowfin. Lúc sáng sớm ngày 28 tháng 11, họ phát hiện một đoàn năm tàu buôn đối phương, và trong cuộc tấn công sau đó Bowfin đã đánh chìm hai chiếc và gây hư hại cho một chiếc thứ ba. Ít lâu sau đó, Bowfin hết ngư lôi và buộc phải rút lui, trong khi Billfish tiếp tục tấn công với bốn quả ngư lôi phía đuôi nhắm vào một mục tiêu còn nổi trên mặt nước. Nó ghi nhận các vụ nổ, nhưng không thể xác nhận kết quả của đợt tấn công. Trên đường quay trở về Australia một tuần sau đó, nó chịu đựng một đợt tấn công với 15 quả mìn sâu trong biển Celebes, nhưng không bị hư hại và về đến Fremantle an toàn.[1]
1944[sửa | sửa mã nguồn]
Chuyến tuần tra thứ ba[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi được tái trang bị cho đến ngày 19 tháng 1, 1944, Billfish lên đường cho chuyến tuần tra thứ ba tại khu vực biển Đông. Nó băng qua eo biển Sibutu vào chiều tối ngày 1 tháng 2, và đến trước nữa đêm đã bắn hải pháo nhắm vào hai tàu vận tải nhỏ, bắn cháy một chiếc và gây hư hại cho chiếc thứ hai. Đến ngày 13 tháng 2, nó bất ngờ bị một tàu đối phương tấn công trên mặt nước bằng hải pháo 4,7 inch (120 mm), buộc chiếc tàu ngầm phải lặn khẩn cấp, rồi tiếp tục chịu đựng mìn sâu thả xuống, nhưng nó thoát được an toàn. Sau cuộc đụng độ với một đoàn tàu khác vào ngày 1 tháng 3, nó kết thúc chuyến tuần tra khi quay trở về Fremantle vào ngày 24 tháng 3.[1]
Chuyến tuần tra thứ tư[sửa | sửa mã nguồn]
Trong chuyến tuần tra thứ hai từ ngày 18 tháng 4 đến ngày 13 tháng 6, Billfish chuyển sang tuần tra tại vùng biển các quần đảo Mariana và Caroline. Vào ngày 2 tháng 5, nó tiếp cận một tàu chở hàng được một tàu khu trục và một tàu quét mìn hộ tống, nhưng đối phương bất ngờ đổi hướng khiến nó không kịp tấn công. Đến ngày 21 tháng 5, nó bắt gặp một đoàn bốn tàu buôn được nhiều tàu săn ngầm hộ tống, và bắn một loạt sáu quả ngư lôi vào hai mục tiêu lớn nhất, trúng đích bốn quả và đánh chìm một tàu buôn và gây hư hại cho một chiếc khác trước khi lặn xuống né tránh phản công. Tuy nhiên thành tích này không được công nhận sau khi truy cứu tài liệu của đối phương sau chiến tranh. Sang ngày hôm sau, nó tìm thấy một tàu ngầm đối phương di chuyển trên mặt nước, và truy đuổi suốt sáu giờ trước khi phóng một loạt bốn quả ngư lôi, nhưng đều trượt do đối phương bất ngờ đổi hướng. Billfish lại bắt gặp một tàu ngầm khác vào ngày 26 tháng 5, nhưng không thể đi đến vị trí tấn công thuận tiện. Sau khi chịu đựng hai đợt không kích, nó lên đường vào ngày 5 tháng 6 để quay trở về căn cứ Trân Châu Cảng tại quần đảo Hawaii.[1]
Chuyến tuần tra thứ năm[sửa | sửa mã nguồn]
Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]
Billfish được tặng thưởng bảy Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][3] Nó được ghi công đã đánh chìm ba tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 4.302 tấn.[10]
![]() | ||
![]() |
![]() |
Dãi băng Hoạt động Tác chiến | ||
Huân chương Chiến dịch Hoa Kỳ | Huân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương với 7 Ngôi sao Chiến trận |
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II |
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b c d e f g h i j Naval Historical Center. “Billfish I (SS-286)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
- ^ a b c d e f Friedman 1995, tr. 285–304
- ^ a b c d e Bauer & Roberts 1991, tr. 275-280
- ^ a b c d e f g h Bauer & Roberts 1991, tr. 270-280
- ^ a b Friedman 1995, tr. 261-263
- ^ a b c d e f g h i j k l Friedman 1995, tr. 305–311
- ^ a b c d Johnston, David L. (tháng 7 năm 2019). “A Visual Guide to the U.S. Fleet Submarines Part Three: Balao and Tench Classes 1942–1950” (PDF). Navsource Naval History. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
- ^ a b Lenton 1973, tr. 79
- ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2022.
- ^ Friedman 1995, tr. 99–104
- ^ Friedman 1995, tr. 208–209
- ^ Alden 1979, tr. 48, 97
- ^ Blair 2001, tr. 65
- ^ Helgason, Guðmundur. “Billfish (SS-286)”. uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
- Naval Historical Center. “Billfish I (SS-286)”. Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
- Alden, John D., Commander (U.S. Navy Ret) (1979). The Fleet Submarine in the U.S. Navy: A Design and Construction History. Naval Institute Press. ISBN 0-85368-203-8.
- Bauer, K. Jack; Roberts, Stephen S. (1991). Register of Ships of the U.S. Navy, 1775–1990: Major Combatants. Westport, Connecticut: Greenwood Press. ISBN 0-313-26202-0.
- Blair, Clay Jr. (2001). Silent Victory: The U.S. Submarine War Against Japan. Naval Institute Press. ISBN 1-55750-217-X.
- Friedman, Norman (1995). U.S. Submarines Through 1945: An Illustrated Design History. Annapolis, Maryland: United States Naval Institute. ISBN 1-55750-263-3.
- Lenton, H. T. (1973). American Submarines (Navies of the Second World War). New York: Doubleday & Co. ISBN 978-0385047616.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
![]() |
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về: |
- NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-286 Billfish
- Kill record: USS Billfish
- Interview with Capt. Charlie Rush