USS Charger (CVE-30)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
USS Charger CVE-30
Tàu sân bay hộ tống USS Charger (CVE-30)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Charger (CVE-30)
Xưởng đóng tàu Sun Shipbuilding & Drydock Co., Chester, Pennsylvania
Đặt lườn 19 tháng 1 năm 1940
Hạ thủy 1 tháng 3 năm 1941 như chiếc Rio de la Plata
Người đỡ đầu bà Felipe A. Espil
Trưng dụng 4 tháng 10 năm 1941
Nhập biên chế 3 tháng 3 năm 1942
Xuất biên chế 15 tháng 3 năm 1946
Xếp lớp lại
Số phận
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu lớp tàu sân bay hộ tống Avenger
Trọng tải choán nước 15.120 tấn Anh (15.360 t) (đầy tải)
Chiều dài 492 ft (150 m)
Sườn ngang 69,5 ft (21,2 m)
Mớn nước 26,25 ft (8,00 m)
Động cơ đẩy
Tốc độ 17 kn (31 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 856
Vũ khí
Máy bay mang theo 15 – 30 × máy bay
Hệ thống phóng máy bay sàn đáp 490 ft × 78 ft (149 m × 24 m)

USS Charger (AVG-4/AVG-30/ACV-30/CVE-30) là một tàu sân bay hộ tống thuộc lớp Avenger của Hải quân Hoa Kỳ. Được cải biến từ một tàu buôn, nó đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai chủ yếu trong vai trò huấn luyện, và ngừng hoạt động năm 1946. Nó được bán ra để phục vụ dân sự như là chiếc MV Fairsea, hoạt động chở người nhập cư giữa Châu ÂuAustralia cho đến khi bị bán để tháo dỡ vào năm 1969.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Vạch kế hoạch như là chiếc thứ ba trong số bốn chiếc của lớp tàu biển kết hợp chở khách và hàng hóa cho hãng Moore-McCormack, nó được đặt lườn vào ngày 19 tháng 1 năm 1940 bởi hãng Sun Shipbuilding and Drydock Co. ở Chester, Pennsylvania; con tàu được hạ thủy như là chiếc Rio de la Plata vào ngày 1 tháng 3 năm 1941, được đỡ đầu bởi bà Felipe A. Espil. Vào ngày 20 tháng 5 năm 1941, Ủy ban Hàng hải Hoa Kỳ trưng dụng cả bốn chiếc tàu hành khách-hàng hóa chưa hoàn tất để sử dụng trong quân sự.

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Rio de la Plata được chuẩn bị để phục vụ cho hải quân bởi xưởng tàu Newport News Shipbuilding and Drydock Co. tại Newport News, Virginia. Dự định để chuyển cho Anh Quốc trong chương trình Cho thuê-Cho mượn, con tàu được nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh vào ngày 2 tháng 10 năm 1941 như là chiếc HMS Charger (D27) dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân Anh George Abel-Smith. Tuy nhiên, việc chuyển giao bị hủy bỏ và con tàu trở lại quyền kiểm soát của Hoa Kỳ vào ngày 4 tháng 10. Nó được xếp lớp AVG-30 vào ngày 24 tháng 1 năm 1942 và nhập biên chế như là chiếc USS Charger vào ngày 3 tháng 3 năm 1942 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân Hoa Kỳ T. L. Sprague, và được phân về Hạm đội Đại Tây Dương. Được Hải quân Hoa Kỳ liệt kê như là chiếc duy nhất trong lớp, nó thực ra là tàu chị em với cùng lịch sử cải biến với những chiếc HMS Avenger, HMS BiterHMS Dasher được chuyển giao cho Anh Quốc.

Khu vực hoạt động của Charger trong suốt chiến tranh là tại vịnh Chesapeake, với nhiệm vụ căn bản là huấn luyện phi công và thủy thủ đoàn tàu sân bay trong các hoạt động không lực. Nhân sự được nó huấn luyện đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc chiến với tàu ngầm đối phương do các đội tàu sân bay hộ tống tiến hành. Được xếp lớp ACV-30 vào ngày 20 tháng 8 năm 1942, rồi thành CVE-30 vào ngày 15 tháng 7 năm 1943, nó từng rời khu vực vịnh Chesapeake trong hai chuyến vận chuyển máy bay: một chuyến đến Bermuda vào tháng 10 năm 1942 và một chuyến đến vịnh Guantánamo, Cuba vào tháng 9 năm 1945.

Charger được cho xuất biên chế tại New York vào ngày 15 tháng 3 năm 1946, và được bán để hoạt động dân sự vào ngày 30 tháng 1 năm 1947 cho tập đoàn Vlasov như là chiếc MV Fairsea. Những nâng cấp tiện nghi sau đó cho phép nó phục vụ lâu dài, chủ yếu như tàu chở người di dân Châu ÂuAustralia. Con tàu bị tai nạn cháy phòng động cơ trong một chặng đường giữa TahitiPanama vào ngày 29 tháng 1 năm 1969. Do không có phụ tùng để sửa chữa, nó bị bán để tháo dỡ tại Ý vào năm 1969.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]