USS Power (DD-839)

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Tàu khu trục USS Power (DD-839) đang được tiếp nhiên liệu từ tàu sân bay Midway, năm 1947
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Power (DD-839)
Đặt tên theo John V. Power
Xưởng đóng tàu Bath Iron Works, Bath, Maine
Đặt lườn 26 tháng 2 năm 1945
Hạ thủy 30 tháng 6 năm 1945
Người đỡ đầu bà George F. Power
Nhập biên chế 13 tháng 9 năm 1945
Xuất biên chế tháng 9 năm 1977
Xóa đăng bạ 1 tháng 10 năm 1977
Số phận Được chuyển cho Đài Loan, 1 tháng 10 năm 1977
Đài Loan
Tên gọi ROCS Shen Yang (DD-23)
Trưng dụng 1 tháng 10 năm 1977
Xuất biên chế 26 tháng 11 năm 2005
Xếp lớp lại DDG-923
Số phận Bị bán để tháo dỡ, 2013[1]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Gearing
Trọng tải choán nước
  • 2.616 tấn Anh (2.658 t) (tiêu chuẩn);
  • 3.460 tấn Anh (3.520 t) (đầy tải)
Chiều dài 390,5 ft (119,0 m)
Sườn ngang 40,9 ft (12,5 m)
Mớn nước 14,3 ft (4,4 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số General Electric;
  • 4 × nồi hơi;
  • 2 × trục;
  • công suất 60.000 shp (45.000 kW)
Tốc độ 36,8 hải lý trên giờ (68,2 km/h; 42,3 mph)
Tầm xa 4.500 nmi (8.300 km) ở tốc độ 20 kn (37 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 350
Vũ khí

USS Power (DD-839) là một tàu khu trục lớp Gearing được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này, nhưng là chiếc duy nhất được đặt theo tên Trung úy Thủy quân Lục chiến John V. Power (1918–1944), người đã tử trận trong trận Kwajalein và được truy tặng Huân chương Danh dự.[2] Hoàn tất khi chiến tranh đã kết thúc, con tàu tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh LạnhChiến tranh Việt Nam cho đến năm 1977. Nó được chuyển cho Đài Loan và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa dân quốc như là chiếc ROCS Shen Yang (DD-23/DDG-923) cho đến năm 2005. Nó bị bán để tháo dỡ vào năm 2013.[1]

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Power được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Bath Iron Works Co. ở Bath, Maine vào ngày 26 tháng 2 năm 1945. Nó được hạ thủy vào ngày 30 tháng 6 năm 1945; được đỡ đầu bởi bà George F. Power, mẹ Trung úy Power, và nhập biên chế tại Xưởng hải quân Boston vào ngày 13 tháng 9 năm 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân John M. Steinbeck.[2]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1945 - 1959[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất chuyến đi chạy thử máy huấn luyện tại khu vực vịnh Guantánamo, Cuba, Power lên đường vào ngày 9 tháng 1 năm 1946 cho chuyến đầu tiên trong nhiều lượt được phái sang phục vụ tại Địa Trung Hải. Quay trở về vùng bờ Đông sáu tháng sau đó, nó tiếp tục hoạt động dọc theo bờ biển Đại Tây Dương và vùng biển Caribe cho đến cuối năm 1948, khi nó lại khởi hành đi sang vùng biển Địa Trung Hải. Con tàu đã tuần tra dọc theo bờ biển Lãnh thổ ủy trị Palestine theo chỉ thị của Ủy ban Thương thuyết Liên Hợp Quốc để dàn xếp những mâu thuẫn trong cuộc Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948.[2]

Vào đầu năm 1950, Power hoạt động cùng những đơn vị thuộc Hải quân Hoàng gia Anh và viếng thăm các cảng Bắc Âu, trước khi đi đến Địa Trung Hải cho một lượt phục vụ khác cùng Đệ Lục hạm đội. Sang mùa Hè năm 1952, nó thực hiện một chuyến đi đến Nam Mỹ, rồi quay trở lại vùng bờ Đông để tiếp tục hoạt động huấn luyện nhân sự hải quân dự bị cùng những chuyến đi huấn luyện cho học viên sĩ quan. Trong những năm tiếp theo, con tàu tiếp tục một nhịp điệu hoạt động tương tự. Trong chuyến đi sang Địa Trung Hải từ tháng 9 năm 1958 đến tháng 3 năm 1959, nó đã hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng Thủy quân Lục chiến lên Beirut, Liban nhân vụ Khủng hoảng Liban 1958. Con tàu cũng từng tham gia hoạt động thu hồi các tàu không gian trong khuôn khổ Chương trình Mercury.[2]

1960 - 1969[sửa | sửa mã nguồn]

USS Power trên đường đi ngoài khơi bờ biển Florida, tháng 6 năm 1966

Từ tháng 11 năm 1960 đến tháng 1 năm 1962, Power được nâng cấp trong khuôn khổ Chương trình Hồi sinh và Hiện đại hóa Hạm đội I (FRAM: Fleet Rehabilitation and Modernization), nhằm kéo dài vòng đời hoạt động thêm 10 đến 20 năm, đồng thời nâng cao năng lực tác chiến. Nó được bổ sung thiết bị điện tử, radarsonar hiện đại, cùng được trang bị vũ khí chống ngầm tiên tiến: tên lửa chống ngầm RUR-5 ASROC cùng hầm chứa và sàn đáp để vận hành máy bay trực thăng không người lái chống ngầm Gyrodyne QH-50 DASH.[2]

Trong lượt hoạt động tại Địa Trung Hải từ tháng 3 đến tháng 9 năm 1963, Power được phái sang hoạt động cùng Lực lượng Trung Đông tại Ấn Độ Dương và vùng vịnh Ba Tư. Từ cuối năm 1963 đến đầu năm 1964, nó hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Florida nhằm phục vụ cho việc phát triển tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm UGM-27 Polaris. Sau một lượt phục vụ khác tại Địa Trung Hải, từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1965, nó được đại tu tại Xưởng hải quân Charleston, và đến tháng 12 đã hoạt động tại khu vực Trung tâm Đại Tây Dương để thu hồi các tàu không gian Gemini 67, trong khuôn khổ Chương trỉnh Gemini.[2][3]

Lần lượt trong các năm 19661967, Power tiếp tục được phái sang hoạt động cùng Đệ Lục hạm đội và Lực lượng Trung Đông. Tuy nhiên vào tháng 8 năm 1968, nó băng qua kênh đào Panama cho một lượt phục vụ tại khu vực Tây Thái Bình Dương. Hoạt động cùng Đệ Thất hạm đội từ ngày 26 tháng 9, nó hộ tống bảo vệ cho các tàu sân bay hoạt động tại trạm Yankee trong vịnh Bắc Bộ, cũng như làm nhiệm vụ tìm kiếm và giải cứu và hỗ trợ hải pháo cho hoạt động tác chiến trên bộ trong khuôn khổ cuộc Chiến tranh Việt Nam. Nó quay trở về Mayport, Florida vào ngày 9 tháng 7 năm 1969.[2]

1970 - 1977[sửa | sửa mã nguồn]

Từ tháng 7 đến tháng 12, 1970, Power thực hiện chuyến viếng thăm thiện chí và biểu dương lực lượng đến các cảng Nam Mỹ, Châu Phi và Ấn Độ Dương. Từ tháng 7 đến tháng 12, 1971, một chuyến đi tương tự đã đưa nó đến Hồng Hải, vùng vịnh Ba TưBahrain. Một lượt hoạt động khác tại Địa Trung Hải diễn ra từ tháng 10, 1972 đến tháng 6, 1973, nơi nó thực hành tác xạ, tập trận đổ bộ và chống tàu ngầm đồng thời viếng thăm các cảng Côte d’Azur, Pháp; Hy LạpThổ Nhĩ Kỳ. Vào ngày 2 tháng 9, 1973, con tàu chuyển cảng nhà từ Mayport, Florida đến Fort Schuyler, New York, và được điều sang phục vụ cùng Hải quân Dự bị Hoa Kỳ.[3][4]

Vào năm 1974, Power trải qua một đợt nâng cấp hệ thống động lực, hệ thống điện tử cũng như các tiện nghi nghỉ ngơi của thủy thủ đoàn. Hoàn tất việc nâng cấp, nó tiến hành chuyến đi huấn luyện ôn tập tại khu vực vịnh Guantánamo, Cuba và vùng biển Caribe trong tháng 3tháng 4, 1975. Gia nhập trở lại lực lượng dự bị và đặt căn cứ tại Fort Schuyler, nó khởi hành vào ngày 14 tháng 1, 1976 cho một chuyến đi huấn luyện dự bị, và sang tháng 4 đã tham gia cuộc Tập trận "Coputex 5". Sau khi quay trở về cảng nhà, nó lên đường đi Norfolk, Virginia để tiếp liệu đạn dược rồi đi đến New York trước khi đi đến Mayport vào vào tháng 7. Con tàu được đại tu tại Brooklyn trước khi tiếp nối vai trò huấn luyện dự bị.[3][4]

ROCS Sheng Yang (DDG-923)[sửa | sửa mã nguồn]

Power được cho xuất biên chế vào tháng 9, 1977, rồi được chuyển cho Đài Loan vào tháng 10 năm đó. Nó tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa dân quốc như là chiếc ROCS Sheng Yang (DDG-923) cho đến khi ngừng hoạt động tại cảng Cơ Long vào ngày 26 tháng 11, 2005. Là chiếc tàu khu trục lớp Gearing cuối cùng của Đài Loan, đã có ý định giữ nó lại như một tàu bảo tàng, nhưng cuối cùng con tàu bị tháo dỡ vào năm 2013.[1][5]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c “●”. ★ 台灣 旅遊網 ★ Taiwan Tour Guide Website. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2018.
  2. ^ a b c d e f g “Power”. Navl History and Heritage Command. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2020.
  3. ^ a b c “U.S.S. POWER”. HullNumber.com. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2020.
  4. ^ a b “USS POWER DD 839”. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2020.
  5. ^ “USS POWER (DD-839)”. NavSource Naval History. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2020.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]